Bạn đang xem bài viết Những Ai Được Mang Thai Hộ? được cập nhật mới nhất trên website Dsb.edu.vn. Hy vọng những thông tin mà chúng tôi đã chia sẻ là hữu ích với bạn. Nếu nội dung hay, ý nghĩa bạn hãy chia sẻ với bạn bè của mình và luôn theo dõi, ủng hộ chúng tôi để cập nhật những thông tin mới nhất.
Hỏi: Vợ chồng tôi lấy nhau đã 7 năm, chạy chữa khắp nơi nhưng vẫn không thể sinh con. Tôi nghe nói pháp luật hiện nay cho phép mang thai hộ, nhưng không biết những ai được mang thai hộ. Xin Báo PNVN cho biết em gái chồng có thể mang thai hộ cho chúng tôi không? Nếu được thì thủ tục như thế nào?
Dương Thị Lan (Bình Thuận)
Trả lời: Theo quy định tại khoản 3, Điều 95, Luật HN&GĐ 2014 về điều kiện mang thai hộ (MTH) vì mục đích nhân đạo thì người được nhờ MTH phải có đủ các điều kiện sau đây:
a) Là người thân thích cùng hàng của bên vợ hoặc bên chồng nhờ MTH;
b) Đã từng sinh con và chỉ được MTH một lần;
c) Ở độ tuổi phù hợp và có xác nhận của tổ chức y tế có thẩm quyền về khả năng MTH;
d) Trường hợp người phụ nữ MTH có chồng thì phải có sự đồng ý bằng văn bản của người chồng;…
Như vậy, nếu xét về đối tượng thì vợ chồng chị có thể nhờ cô em gái chồng MTH (nếu đáp ứng các điều kiện trên).
Về thủ tục nhờ MTH, theo khoản 1, Điều 95 thì việc MTH phải được thực hiện trên cơ sở tự nguyện của các bên và được lập thành văn bản.
Còn theo khoản 2, Điều 95 thì Vợ chồng có quyền nhờ người mang thai hộ khi có đủ các điều kiện sau đây:
a) Có xác nhận của tổ chức y tế có thẩm quyền về việc người vợ không thể mang thai và sinh con ngay cả khi áp dụng kỹ thuật hỗ trợ sinh sản;
b) Vợ chồng đang không có con chung;…
Sau khi đã làm đầy đủ các thủ tục trên, hai bên phải lập thỏa thuận về MTH, phải có các nội dung cơ bản sau:
b) Cam kết thực hiện các quyền, nghĩa vụ quy định tại Điều 97 và Điều 98 của Luật này;
c) Việc giải quyết hậu quả trong trường hợp có tai biến sản khoa; hỗ trợ để bảo đảm sức khỏe sinh sản cho người MTH trong thời gian mang thai và sinh con, việc nhận con của bên nhờ mang thai hộ, quyền và nghĩa vụ của hai bên đối với con…;
d) Trách nhiệm dân sự trong trường hợp một hoặc cả hai bên vi phạm cam kết theo thỏa thuận…
Ai Được Phép Mang Thai Hộ Theo Quy Định Mới Nhất?
Lần đầu tiên khái niệm mang thai hộ được đề cập đến trong Luật Hôn nhân và gia đình 2014. Từ đó đến nay, mang thai hộ gần như đã niềm hi vọng cuối cùng cho những cặp vợ chồng hiếm muộn khát khao có con.
Mang thai hộ thực chất là gì?
Khoản 22 Điều 3 Luật Hôn nhân và Gia đình 2014 định nghĩa khá cụ thể về mang thai hộ vì mục đích nhân đạo.
Theo đó, mang thai hộ vì mục đích nhân đạo là việc một người phụ nữ tự nguyện, không vì mục đích thương mại giúp mang thai cho cặp vợ chồng mà người vợ không thể mang thai và sinh con ngay cả khi áp dụng kỹ thuật hỗ trợ sinh sản (như thụ tinh nhân tạo…).
Cách thức mang thai hộ như sau: Lấy noãn của người vợ và tinh trùng của người chồng để thụ tinh trong ống nghiệm, sau đó cấy vào tử cung của người phụ nữ tự nguyện mang thai hộ để người này mang thai và sinh con.
Vào tháng 1/2016, em bé đầu tiên được sinh ra nhờ phương pháp mang thai hộ đã chào đời tại Bệnh viện Phụ sản trung ương, sau 16 năm mong mỏi của một cặp vợ chồng hiếm muộn. Người mang thai hộ là một người cô họ.
Luật Hôn nhân và Gia đình chỉ cho phép mang thai hộ vì mục đích nhân đạo và cấm mang thai hộ vì mục đích thương mại, tức là cặp vợ chồng nhờ mang thai hộ và người mang thai hộ không được ràng buộc với nhau về mặt vật chất.
Đồng thời, Điều 95 của Luật này cũng quy định, vợ chồng chỉ có quyền nhờ người mang thai hộ khi đã có xác nhận của bệnh viện về việc người vợ không thể mang thai và sinh con ngay cả khi áp dụng kỹ thuật sinh sản; Vợ chồng đang không có con chung và đã được tư vấn về y tế, pháp lý, tâm lý.
Trong khi đó, người được nhờ mang thai hộ phải đáp ứng các điều kiện sau:
– Là người thân thích cùng hàng của bên vợ hoặc bên chồng nhờ mang thai hộ;
– Đã từng sinh con và chỉ được mang thai hộ một lần;
– Ở độ tuổi phù hợp và có xác nhận của bệnh viện về khả năng mang thai hộ;
– Nếu người mang thai hộ có chồng thì phải có sự đồng ý bằng văn bản của người chồng;
– Đã được tư vấn về y tế, pháp lý, tâm lý.
Những Người Có Quyền Được Mang Thai Hộ
“Cơ chế thân thích là để đảm bảo tính hỗ trợ, chia sẻ, tránh việc bị thương mại hóa” – ông Dương Đăng Huệ – Vụ trưởng Vụ Pháp luật Dân sự – Kinh tế (Bộ Tư pháp), Tổ trưởng biên tập Dự thảo Luật sửa đổi, bổ sung Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2000 nói về chế định “mang thai hộ vì mục đích nhân đạo”.
Nuôi cấy trứng non thụ tinh trong ống nghiệm bằng kỹ thuật IVM tại bệnh viện An Sinh, TP.HCM.
Nhu cầu “mang thai hộ” là rất lớn – Thưa ông việc mang thai hộ lâu nay vẫn bị pháp luật nghiêm cấm. Tại sao trong Dự thảo luật lần này lại bổ sung chế định mang thai hộ?
– Đúng là Dự thảo luật lần này dự trù đưa vào một quy định rất mới là “mang thai hộ vì mục đích nhân đạo”. Quy định này xuất phát từ nhu cầu thực tế trong đời sống xã hội ở nước ta, có rất nhiều gia đình chỉ có mỗi người con trai mà vợ anh ta lại không thể sinh nở trong khi truyền thống văn hóa ở ta coi trọng việc sinh con nối dõi. Thực tế ở nhiều nơi, đặc biệt tại các bệnh viện phía Nam, có rất nhiều đơn gửi tới lãnh đạo bệnh viện với nguyện vọng nhờ người mang thai hộ, nhưng các bác sĩ từ chối vì luật chưa có. Nhiều bác sĩ nói với tôi khi đọc nhiều lá đơn đã phát khóc bởi những câu chuyện có tình cảnh éo le, thương cảm. Chính vì thế họ đã kiến nghị nên sửa luật cho phép “mang thai hộ vì mục đích nhân đạo”. Theo tôi cần phải cho phép việc này vì đây là giải pháp mang tính nhân đạo rất lớn, nó giúp cho những cặp vợ chồng hiếm muộn không thể đẻ con một cách bình thường có con để chăm nuôi, người phụ nữ được làm mẹ.
– Từ trước tới nay đã có nhiều trường hợp mang thai hộ vì mục đích thương mại. Nếu tới đây luật cho phép thì liệu mục đích “nhân đạo” có bị lợi dụng?
– Cũng có nhiều ý kiến cho rằng khi luật cho phép, việc mang thai hộ sẽ bị lợi dụng. Bởi khi cấm người ta vẫn còn làm huống chi là cho phép, tuy nhiên tôi cho rằng sự lo lắng đó không có cơ sở. Chính vì chúng ta cấm mới sinh ra chuyện mang thai hộ một cách lén lút, mà khi làm lén lút thì hậu quả nghiêm trọng hơn là chúng ta hợp pháp hóa nó. Trên thực tế có những người vì nhu cầu phải có con người ta dùng cách thuê người mang thai để đẻ. Làm như vậy, một là tốn kém, hai là vì lén lút người mang thai hộ không được khám định kỳ, thiếu sự chăm sóc, hỗ trợ về y tế dẫn đến hậu quả nghiêm trọng. Có nhiều trường hợp mang thai hộ bất hợp pháp dẫn đến việc chết cả mẹ, lẫn con. Khi đã hợp pháp hóa mới tạo điều kiện cho người có nhu cầu được thực hiện một cách công khai, tránh được những hậu quả đáng tiếc khi phải làm chui. Người đã sinh con mới được phép mang thai hộ
– Trong Dự thảo luật quy định điều kiện của người nhờ mang thai hộ và người mang thai hộ ra sao, thưa ông?
– Khi đã có chủ trương cho phép mang thai hộ vì mục đích nhân đạo thì luật pháp phải quy định đảm bảo chặt chẽ từ 2 phía để tránh sự lạm dụng vì mục đích thương mại. Ở đây có 2 chủ thể, người nhờ mang thai hộ và người mang thai hộ. Khi cả 2 đáp ứng đủ điều kiện mới được thực hiện hành vi của mình. Không phải ai cũng nhờ người khác mang thai hộ được, chỉ được áp dụng đối với những cặp vợ chồng mà người vợ không thể mang thai và sinh con ngay cả khi áp dụng kỹ thuật hỗ trợ sinh sản. Còn nếu một cô ca sĩ hay người mẫu khỏe mạnh bình thường, nhưng không muốn mang thai vì sợ ảnh hưởng đến hình thức và muốn nhờ người khác mang thai hộ thì trường hợp này, luật không cho phép. Về phía người nhận mang thai hộ, thứ nhất quy định độ tuổi bao nhiêu để đảm bảo sức khỏe khi mang thai hộ, chẳng hạn từ 21 – 40 tuổi; thứ hai là người này không mắc các bệnh nguy hiểm để khi mang thai không dẫn đến hậu quả xấu. Người có bệnh y học chứng minh khi mang thai nguy hiểm đến tính mạng thì không được phép; thứ ba là người đó phải đẻ một lần rồi, bởi như vậy mới có kinh nghiệm. Bên cạnh đó 2 bên phải đảm bảo một điều kiện quan trọng là không phải vì tiền, không phải ký hợp đồng để rồi sau đó đòi tiền nhau. Đây là việc nhân đạo, trên tinh thần tương trợ lẫn nhau. Theo tôi trên thực tế để kiểm soát chặt cái này cũng khó nhưng khi đã có quy định như vậy rõ ràng sẽ hạn chế được.
– Dự thảo Luật quy định người mang thai hộ phải là người có quan hệ thân thích của vợ hoặc chồng nhờ mang thai hộ. Nhưng lại có thêm phương án trong trường hợp không có người thân thích để nhờ mang thai hộ thì có thể nhờ người phụ nữ khác mang thai hộ. Điều này có bất hợp lý?
– Đây là vấn đề chúng tôi đang bàn. Có quan điểm đưa ra là những người mang thai hộ phải có quan hệ thân thích với bên nhờ mang thai hộ. Quy định này là để làm hẹp lại đối tượng nhờ và được nhờ mang thai hộ. Quan điểm thứ hai thì cho rằng quy định như vậy giống như mở cửa chỉ mở một cánh, đã mở là mở rộng, bất cứ người nào có khả năng mang thai đều có thể được người ta nhờ, không bị hạn chế bởi mối quan hệ. Theo tôi trong điều kiện nước ta cần phải quy định theo hướng hẹp, bởi cơ chế thân thích là để đảm bảo tính hỗ trợ, chia sẻ, tránh việc bị thương mại hóa. Một người không quen biết mà họ nhận giúp thì rõ ràng không phải vì sự chia sẻ, giúp đỡ. Xin cảm ơn ông
(BDV)
Mang Thai Hộ Con Sinh Ra Là Của Ai?
Quy định về trường hợp mang thai hộ
Quy định về việc mang thai hộ
Trả lời:
Căn cứ quy định tại Điều 94 Luật hôn nhân và gia đình số 2014:
“Điều 94. Xác định cha, mẹ trong trường hợp mang thai hộ vì mục đích nhân đạo Con sinh ra trong trường hợp mang thai hộ vì mục đích nhân đạo là con chung của vợ chồng nhờ mang thai hộ kể từ thời điểm con được sinh ra.”
Như vậy, con sinh ra trong trường hợp mang thai hộ vì mục đích nhân đạo là con chung của vợ chồng bạn – người nhờ mang thai hộ kể từ thời điểm con được sinh ra.
Về thủ tục cấp giấy khai sinh, căn cứ quy định tại Điểm c Khoản 2 Điều 2 Thông tư 34/2015/TT-BYT:
“Điều 2. Thủ tục cấp Giấy chứng sinh c) Trường hợp trẻ sinh ra do thực hiện kỹ thuật mang thai hộ thì Bên vợ chồng nhờ mang thai hộ hoặc Bên mang thai hộ phải nộp Bản xác nhận về việc sinh con bằng kỹ thuật mang thai hộ theo Phụ lục số 05 ban hành kèm theo Thông tư này và bản sao có chứng thực hoặc bản chụp có kèm theo bản chính để đối chiếu Bản thỏa thuận về mang thai hộ vì mục đích nhân đạo giữa vợ chồng nhờ mang thai hộ và Bên mang thai hộ gửi cơ sở khám bệnh, chữa bệnh nơi trẻ sinh ra. Trẻ sinh ra do thực hiện kỹ thuật mang thai hộ sẽ được cấp Giấy chứng sinh theo Mẫu quy định tại Phụ lục 01A ban hành kèm theo Thông tư này. Giấy chứng sinh này là văn bản chứng minh việc mang thai hộ khi làm thủ tục đăng ký khai sinh. Việc cấp Giấy chứng sinh thực hiện theo quy định tại Điểm a Khoản 2 Điều này.”
Theo đó, vợ chồng bạn cần phải nộp bản xác nhận về việc sinh con bằng kỹ thuật mang thai hộ theo Phụ lục 05 ban hành kèm theo Thông tư 34/2015/TT-BYT và bản sao có chứng thực hoặc bản chụp có kèm bản chính bản thỏa thuận về mang thai hộ vì mục đích nhân đạo giữa vợ chồng bạn và bên mang thai hộ gửi cơ sở khám, chữa bệnh nơi trẻ sinh ra để được cấp giấy chứng sinh.
Sau khi được cấp giấy chứng sinh thì bạn làm thủ tục cấp giấy khai sinh cho con theo quy định tại Điều 16 Luật hộ tịch 2014, theo đó:
– Bạn nộp tờ khai theo mẫu và giấy chứng sinh cho cơ quan đăng ký hộ tịch. Trường hợp của bạn khai sinh cho trẻ em sinh ra do mang thai hộ phải có văn bản chứng minh việc mang thai hộ theo quy định pháp luật, văn bản xác nhận của cơ sở y tế đã thực hiện kỹ thuật hỗ trợ sinh sản cho việc mang thai hộ. Phần khai về cha, mẹ của trẻ được xác định theo cặp vợ chồng nhờ mang thai hộ.
– Ngay sau khi nhận đủ giấy tờ, nếu thấy thông tin khai sinh đầy đủ và phù hợp, công chức tư pháp – hộ tịch ghi nội dung khai sinh theo quy định vào Sổ hộ tịch; cập nhật vào Cơ sở dữ liệu hộ tịch điện tử, Cơ sở dữ liệu quốc gia về dân cư để lấy Số định danh cá nhân.
– Công chức tư pháp – hộ tịch và người đi đăng ký khai sinh cùng ký tên vào Sổ hộ tịch. Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp xã cấp Giấy khai sinh cho người được đăng ký khai sinh.
Cập nhật thông tin chi tiết về Những Ai Được Mang Thai Hộ? trên website Dsb.edu.vn. Hy vọng nội dung bài viết sẽ đáp ứng được nhu cầu của bạn, chúng tôi sẽ thường xuyên cập nhật mới nội dung để bạn nhận được thông tin nhanh chóng và chính xác nhất. Chúc bạn một ngày tốt lành!