Xu Hướng 3/2023 # Thực Trạng Chung Về Mang Thai Tuổi Vị Thành Niên Và Các Chương Trình # Top 3 View | Dsb.edu.vn

Xu Hướng 3/2023 # Thực Trạng Chung Về Mang Thai Tuổi Vị Thành Niên Và Các Chương Trình # Top 3 View

Bạn đang xem bài viết Thực Trạng Chung Về Mang Thai Tuổi Vị Thành Niên Và Các Chương Trình được cập nhật mới nhất trên website Dsb.edu.vn. Hy vọng những thông tin mà chúng tôi đã chia sẻ là hữu ích với bạn. Nếu nội dung hay, ý nghĩa bạn hãy chia sẻ với bạn bè của mình và luôn theo dõi, ủng hộ chúng tôi để cập nhật những thông tin mới nhất.

Thực trạng chung về mang thai tuổi vị thành niên và các chương trình/chính sách chăm sóc sức khỏe sinh sản vị thành niên

I-THỰC TRẠNG MANG THAI TUỔI VỊ THÀNH NIÊN

1. Thế giới

Báo cáo“Làm mẹ khi chưa trưởng thành: Thách thức mang thai ở tuổi vị thành niên”cho thấy hàng năm thế giới có hơn 7 triệu em gái ở các quốc gia nghèo sinh con trước 18 tuổi, trong đó khoảng 2 triệu ca là các bà mẹ dưới 14 tuổi. Các bà mẹ chưa trưởng thành này sẽ phải gánh chịu những hậu quả nghiêm trọng và kéo dài về mặt sức khỏe và xã hội do việc mang thai sớm.

Quỹ Dân số Liên hợp quốc (UNFPA) cho biết, mỗi năm có khoảng 16 triệu em gái tuổi 15-19 sinh con; cứ 10 trẻ vị thành niên (VTN) thuộc nhóm này thì 9 đã lập gia đình. Các biến chứng khi mang thai và khi sinh tiếp tục là những nguyên nhân hàng đầu gây tử vong mẹ với các em gái 15-19 tuổi ở các nước có thu nhập thấp và trung bình. Trên toàn cầu, cứ 3 nữ thanh niên tuổi 20-24 thì có 1 người (khoảng 70 triệu người) kết hôn trước tuổi 18.

2. Việt Nam

Theo thống kê của Trung tâm Tư vấn SKSS-KHHGĐ của Bệnh viện Phụ sản Trung ương, trong 5 năm 2008-2012, mỗi năm có xấp xỉ 80-100 ca đẻ/nạo,phá thai ở độ tuổi VTN. Tỷ lệ mang thai VTN trong tổng số ca nạo phá thai ở Bệnh viện này chiếm 1-3%.Tại Bệnh viện Từ Dũ (TPHCM) cũng trong giai đoạn này, tỉ lệ đẻ/phá thai ở độ tuổi VTN cũng chiếm khoảng 2,2-3,4% tổng số ca đẻ/phá thai ở Bệnh viện. Tuy nhiên,trong2 năm 2011-2012, tỉ lệ phá thai VTN ở Bệnh viện Từ Dũ tăng cao đột biến lên 6,8%. Theo các chuyên gia, việc gia tăng này có thể xuất phát từ 2 lý do: Thực sự là do số ca nạo phá thai tăng lên, hoặc do các em nhận thức tốt hơn về phá thai an toàn nên đến các Bệnh viện chuyên khoa, có trang thiết bị, tay nghề bác sĩ tốt.

Theo Vụ Sức khỏe Bà mẹ-Trẻ em (Bộ Y tế), tỷ lệ vị thành niên có thai trong tổng số người mang thai tăng liên tục qua các năm: Năm 2010:2,9%; năm 2011:3,1%; năm 2012:3,2%, tương ứng tỷ lệ phá thai ở lứa tuổi này là 2,2% (2010), 2,4% (2011) và 2,3% (2012).

Theo điều tra quốc gia về VTN và thanh niên Việt Nam lần thứ 2 (SAVY 2) năm 2009, tỉ lệ nạo phá thai ở VTN trên tổng số ca đẻ ước tính khoảng 20%, cao hơn nhiềuso với số liệu củaBệnh viện Phụ sản Trung ươngvàBệnh viện Từ Dũ.Vì thế, theo các chuyên gia,sựchênh lệchnàyphản ánh mảng tối trong việc phá thai không an toàn hiện nay.

Thống kê của Hội Kế hoạch hóa gia đình Việt Nam cho thấy, trung bình mỗi năm cả nước có khoảng 300 ngàn ca nạo hút thai ở độ tuổi 15-19, trong đó 60 – 70% là học sinh, sinh viên.Theo Tổng cục Dân số-KHHGĐ, mặc dù tỷ lệ phá thai ở Việt Nam trong 10 năm gần đây giảm, nhưng tỷ lệ nạo phá thai ở trẻ VTN, thanh niên lại có dấu hiệu gia tăng, chiếm hơn 20% các trường hợp nạo phá thai.

Các kết quả nghiên cứu cũng cho thấy, độ tuổi quan hệ tình dục lần đầu ở VTN Việt Nam ngày càng sớm. Tuy nhiên, kiến thức của VTN về phòng tránh thai, HIV và các bệnh lây truyền qua đường tình dục khác vẫn còn rất hạn chế – chỉ có khoảng 20,7% sử dụng biện pháp tránh thai trong lần quan hệ tình dục đầu tiên.

Với con số mang thai và nạo hút thaiVTN nhưtrên, Việt Nam là nước có tỷ lệ nạo phá thai ở tuổi VTN cao nhất Đông Nam Á và đứng thứ 5 trên thế giới. Đây không chỉ là một gánh nặng, thách thức lớn cho công tác dân số, mà đáng lưu tâm hơn là nó để lại những hậu quả nghiêm trọng cho thế hệ trẻ.Nguyên nhân của thực trạng trên được các chuyên gia dân số lý giải đó là do tình trạng tảo hôn và quan hệ tình dục trước hôn nhân; các dịch vụ chăm sóc sức khỏe sinh sản, tình dục còn chưa được phổ biến rộng rãi; giới trẻ chưa được trang bị đầy đủ kiến thức về giới tính; tiếp cận với các dịch vụ chăm sócSKSS, sức khỏe tình dục không dễ dàng, đặc biệt là VTN, thanh niên sống ở nông thôn vàmiền núi.

Hậu quả

Nguyên nhân của thực trạng trên là do tảo hôn và quan hệ tình dục trước hôn nhân; các dịch vụ chăm sóc SKSS, tình dục chưa được phổ biến rộng rãi; thiếukiến thức về SKSS, thiếusố liệu thống kê chính thức về tình trạng mang thai, tỷ lệ phá thai và sinh con sớm ở tuổi vị thành niên…Nhữngrủi ro thường xảy ra khi sinh con ở tuổiVTNgồm: nguy cơ sinh non, sinh nhẹ cân, thai lưu và chết sơ sinh cao. Bên cạnh đó, kết hôn sớm cũng khiến các em phải chịu áp lực trong sinh nở, chăm sóc con cái và gia đình khi chưa đủ trưởng thành.

II. CÁC CHƯƠNG TRÌNH/CHÍNH SÁCH CHĂM SÓC SỨC KHỎE SINH SẢN VỊ THÀNH NIÊN

1. Môi trường pháp lý cho thực hiện các can thiệp

Cho đến nay, có thể nói, Việt Nam đã có một hệ thống các văn bản chính sách thuận lợi cho việc triển khai các can thiệp nhằm đáp ứng nhu cầu SKSS VTN. Tuychưacó một Chiến lược quốc gia, song SKSS VTN đã được đề cập trongnhiềuvăn bản pháp lý quan trọng (luật, pháp lệnh, chiến lược) về chăm sóc SKSS hoặc chăm sóc và bảo vệ sức khỏe cho VTN.

 Tháng 11/2005, Luật Thanh niên được Quốc hội thông qua-một dấu mốc quan trọng cho việc hoàn thiện các quyền của thanh niên. Đây là văn bản chính thức giúp hoàn thiện môi trường pháp lý cho các can thiệp SKSS VTN ở Việt Nam. Điều 21và 22quy địnhvềchính sách đầu tư, khuyến khích các tổ chức, cá nhân xây dựng các cơ sở y tế, cơ sở hoạt động thể dục, thể thao; phát triển các hoạt động tư vấn về tình yêu, hôn nhân, gia đình, thực hiện kế hoạch hóa gia đình trong thanh niên;nâng cao chất lượng chăm sóc sức khỏe cho thanh niên, tổ chức tư vấn cho thanh niên về dinh dưỡng, sức khỏe tinh thần, SKSS, kỹ năng sống, phòng chống ma túy, HIV/AIDS, các bệnh lây truyền qua đường tình dục.

 Tháng 1/2003, Pháp lệnh Dân số được ban hành và sửa đổi vào 8/2008. Pháp lệnh gồm các giải pháp thực hiệnc ho từng nhóm đối tượng, giáo dục giới tính, SKSS và kỹ năng sống tại các trường đại học, cao đẳng, trung học chuyên nghiệp, giáo dục dạy nghề và phổ thông.Tháng6/2006, Luật Phòng, chống nhiễm HIV/AIDS đã được Quốc hội nước CHXHCN Việt nam thông qua.

Tháng 11/2011, Chiến lược Dân số và SKSS Việt Nam giai đoạn 2011-2020đượcChính phủ phê duyệt.“Cải thiện tình hình SKSS của VTN&TN thông qua việc giáo dục, tư vấn và cung cấp các dịch vụ SKSS phù hợp với lứa tuổi” và “Nâng cao sự hiểu biết của phụ nữ và nam giới về giới tính và tình dục để thực hiện đầy đủ quyền và trách nhiệm sinh sản, xây dựng quan hệ tình dục an toàn, có trách nhiệm, bình đẳng và tôn trọng lẫn nhau nhằm nâng cao SKSS và chất lượng cuộc sống”. Đó là giải pháp mở rộng các hình thức giáo dục, nâng cao chất lượng giáo dục dân số, SKSS, giới và giới tính trong và ngoài nhà trường; giải pháp về chăm sóc SKSS và nâng cao dân trí, tăng cường vai trò của gia đình và bình đẳng giới.

 Có thể thấy rằng, một chiến lược chăm sóc SKSS cho VTN&TN bao gồm hệ thống các văn bản pháp lý đề cập đến vấn đề chăm sóc SKSS VTN, các chương trình hành động nêu lên mục tiêu, giải pháp và sự phân định trách nhiệm các tổ chức, cơ quan nhà nước trong việc thực hiện là một đáp ứng hết sức cơ bản của Nhà nước và Chính phủ đối với các nhu cầu SKSS VTN hiện tại cũng như trong tương lai. Các văn bản pháp lý này thể hiện sự cam kết của Chính phủ trong các hỗ trợ kỹ thuật, cơ sở hạ tầng cũng như hỗ trợ tài chính.

 2. Cung cấp dịch vụ y tế

 Dù còn nhiều hạn chế về chất lượng, mức độ thân thiện, bảo mật, các dịch vụ lâm sàng, cận lâm sàng, điều trị về SKSS và cung cấp các biện pháp tránh thai của hệ thống y tế nhà nước đã đáp ứng phần nào nhu cầu của VTN. Sự cởi mở về mặt chính sách của nhà nước (chủ trương xã hội hóa công tác y tế, khuyến khích hành nghề y, dược tư nhân…) đã bước đầu tạo điều kiện cho sự ra đời các cơ sở cung cấp dịch vụ SKSS VTN do các tổ chức phi chính phủ, các tổ chức cộng đồng hoặc các cá nhân phụ trách. Chính hệ thống dịch vụ này đã bổ sung cho hoạt động của các dịch vụ nhà nước và mở ra hướng đi mới cho việc phát triển đa dạng các hình thức cung ứng dịch vụ linh hoạt, thân thiện cho VTN, thậm chí dành riêng cho những nhóm đối tượng khác nhau như nam, nữ, học sinh, VTN nghiện chích ma túy, VTN nhiễm HIV. Trong tương lai, các cơ sở cung cấp dịch vụ SKSS VTN của các tổ chức, cá nhân không thuộc nhà nước sẽ đóng vai trò quan trọng, giúp việc cung cấp dịch vụ SKSS VTN trở nên đa dạng, hiệu quả hơn.

 Bộ Y tế đã ban hành “Chuẩn quốc gia về dịch vụ SKSS” (2002) và hiện nay đang xây dựng “Hướng dẫn quốc gia về dịch vụ sức khỏe thân thiện dành cho VTN&TN”. Đây là đáp ứng quan trọng tiến tới hoàn thiện về mặt chất lượng, kỹ thuật đối với các dịch vụ SKSS cung cấp cho VTN. Tháng 8 năm 2006, Bộ Y tế ra quyết định (số 23/2006/QĐ-BYT) chuyển đổi các Trung tâm chăm sóc sức khỏe bà mẹ, trẻ em và KHHGĐ ở các tỉnh, thành phố trực thuộc TW trước đây thành các Trung tâm chăm sóc SKSS, theo đó các trung tâm chăm sóc SKSS tỉnh/thành phố sẽ có khoa Chăm sóc SKSS vị thành niên và nam học.

 3. Cung cấp thông tin – giáo dục – truyền thông

 Trong lĩnh vực giáo dục, nối tiếp với chương trình thí điểm giáo dục dân số được thực hiện từ những năm đầu của thập kỷ 80, từ năm 1998, các nội dung giáo dục SKSS VTN được xác định cần ưu tiên và đưa vào lồng ghép, tích hợp trong 4 môn học: Sinh học, Địa lý, Giáo dục công dân, Ngữ văn của chương trình giảng dạy chính khóa. Tuy nhiên, hiệu quả thực hiện phương thức giáo dục lồng ghép này không cao do thời lượng các môn học chính khóa đã quá tải, giáo viên thiếu kiến thức và có thái độ e ngại khi nói về các vấn đề SKSS.

 Các hoạt động truyền thông cung cấp thông tin, tư vấn về SKSS VTN tới các đối tượng VTN ngoài trường học đã được Đoàn thanh niên cộng sản Hồ Chí Minh thực hiện với nhiều hình thức như: biên soạn các tài liệu giáo dục SKSS VTN (tờ rơi, sách, sổ tay, băng hình…); tổ chức chiến dịch truyền thông; thiết lập trang web và đường dây nóng tư vấn về các vấn đề SKSS VTN. Các mô hình can thiệp về SKSS VTN dành cho VTN đã luôn được Đoàn thanh niên chú trọng phát triển: Trung tâm tư vấn thanh niên; Câu lạc bộ tiền hôn nhân và SKSS; Góc dịch vụ thân thiện dành cho VTN đặt trong các cơ sở của Đoàn thanh niên; Thanh niên tình nguyện thực hiện giáo dục về SKSS VTN…. Tuy nhiên, hiện nay mức độ đáp ứng của tổ chức Đoàn tại tuyến cơ sở còn không đồng đều. Các hoạt động can thiệp SKSS VTN nói trên được tổ chức rời rạc, thiếu tính đồng bộ và quy mô.

 Việc tuyên truyền về SKSS VTN trong cộng đồng, tới các bậc cha mẹ cũng đã bắt đầu được thực hiện. Hội Phụ nữ, Hội nông dân là đã tham gia thực hiện nhiệm vụ này. Tuy nhiên, các can thiệp còn rất ít và chỉ mới ở những bước ban đầu. Thực tế, dưới góc độ chính sách và xây dựng chương trình, nội dung này hoàn toàn được coi là tiểu phần xây dựng môi trường thuận lợi cho việc tiến hành các can thiệp về SKSS VTN chứ chưa được đánh giá ở tầm chiến lược như là một yếu tố nền tảng, trực tiếp nâng cao SKSS VTN.

 4. Cam kết tài chính cho thực hiện các can thiệp

 Thách thức quan trọng đối với Chính phủ hiện nay là ưu tiên về SKSS VTN chỉ là một trong rất nhiều ưu tiên về phát triển kinh tế – xã hội, xóa đói giảm nghèo. Mặc dù ngân sách nhà nước chi cho các hoạt động y tế, giáo dục năm sau đều cao hơn so với năm trước song thực chất còn rất eo hẹp, chưa đáp ứng được nhu cầu phát triển. Việc thực hiện các cam kết về mặt tài chính cho các can thiệp về SKSS VTN từ trước đến nay gặp nhiều khó khăn.

 Trong ngân sách nhà nước dành cho ngành y tế, chỉ 10 tỷ VNĐ (ngân sách Bộ Y tế) được dành cho hoạt động chăm SKSS năm 2006. Dự án chăm sóc SKSS hiện mới được trình Thủ tướng Chính Phủ phê duyệt để đưa vào chương trình mục tiêu y tế quốc gia triển khai thực hiện từ năm 2008 với một con số ngân sách khiêm tốn 100 tỷ VNĐ/năm (ngân sách Bộ Y tế: 20 tỷ, ngân sách địa phương: 80 tỷ). Tương tự, dự án y tế học đường có thể bao gồm cả nội dung chăm sóc SKSS VTN trong trường học cũng được dự toán chi 50 tỷ VNĐ/năm (ngân sách Bộ Y tế: 10 tỷ, ngân sách địa phương: 40 tỷ). Kế hoạch tổng thể chăm sóc, bảo vệ và nâng cao sức khỏe cho VTN&TN Việt Nam giai đoạn 2006-2010 trong đó bao quát hết các nội dung SKSS VTN, ước tính một ngân sách khiêm tốn là 100 tỷ VNĐ (khoảng 6,3 triệu USD) cho việc triển khai thực hiện song cũng vẫn chỉ là ngân sách dự kiến huy động từ nhiều nguồn và đến nay vẫn chưa có một cam kết cụ thể nào.

 5. Thực hiện điều phối, tổ chức

 Để thực hiện Chiến lược chăm SKSS, trong đó có mục tiêu chăm sóc SKSS VTN do Thủ tướng Chính phủ phê duyệt, Ban chỉ đạo đã được thành lập gồm Bộ Y tế, Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch, Bộ Giáo dục – Đào tạo, Bộ LĐ-TB-XH, Tổng cục Dân số-KHHGĐ-Bộ Y tế, Tổng cục Thể dục thể thao và các tổ chức đoàn thể là Đoàn thanh niên, Hội phụ nữ. Trong đó, Bộ Y tế giữ vai trò chủ đạo.

 Khuyến nghị các Chương trình/Chính sách tiếp theo về chăm sóc SKSS VTN

 a. Hiện thực hóa các chính sách, tăng cường cam kết của chính quyền

 b. Đa dạng và mở rộng các dịch vụ SKSS VTN

 Các dịch vụ SKSS VTN thiết yếu nên được cung cấp bao gồm: thông tin, tư vấn và dịch vụ về các biện pháp tránh thai, các bệnh lây truyền qua đường tình dục, dinh dưỡng, vệ sinh kinh nguyệt, nạo thai an toàn; thông tin, giáo dục và tư vấn về HIV/AIDS, tiếp cận với các phương tiện phòng tránh như bao cao su, bơm kim tiêm sạch, tư vấn và xét nghiệm tự nguyện, chẩn đoán sớm và điều trị điều trị HIV/AIDS bao gồm cả tiếp cận thuốc ARV.

 Kinh nghiệm có được từ việc thực hiện các can thiệp SKSS VTN ở Việt Nam cũng như nhiều quốc gia khác cho thấy các dịch vụ SKSS VTN không thể chỉ được cung cấp ở tuyến Trung ương cũng như chỉ ở các cơ sở y tế công lập. Đa dạng hóa và mở rộng mạng lưới cung cấp dịch vụ SKSS VTN, đặc biệt là các dịch vụ thân thiện là hết sức cần thiết để có thể đáp ứng ngày một tốt hơn các nhu cầu SKSS của VTN&TN. Cụ thể, cần đưa dịch vụ SKSS VTN xuống các cơ sở y tế thuộc tuyến chăm sóc sức khỏe ban đầu (trạm y tế xã/phường, các trung tâm y tế quận/huyện) hoặc các cơ sở trực thuộc các tổ chức quần chúng, tổ chức xã hội dân sự địa phương. Cần huy động các tổ chức y tế tư nhân, tổ chức phi chính phủ quốc tế, tổ chức phi chính phủ Việt Nam, tổ chức cộng đồng… tham gia cung cấp dịch vụ SKSS VTN có chất lượng.

 Thông tin và các dịch vụ SKSS VTN được cung cấp qua nhiều mô hình can thiệp đa dạng và có sự lồng ghép với nhau. Các mô hình can thiệp đó có thể là: Lồng ghép giáo dục SKSS VTN với các môn học chính khóa trong nhà trường; Giáo dục SKSS VTN thông qua các hoạt động ngoại khóa; Các chương trình truyền thông trên phương tiện thông tin đại chúng; Trung tâm tư vấn SKSS cho VTN&TN; Góc dịch vụ thân thiện; Góc tư vấn thân thiện; Tư vấn qua điện thoại, internet; Giáo dục đồng đẳng, truyền thông nhóm nhỏ; Câu lạc bộ VTN&TN; Điểm vui chơi, giải trí có cung cấp dịch vụ SKSS VTN; Góc cung cấp thông tin, dịch vụ tại các điểm bưu điện, nhà văn hóa xã/phường; Các nhóm sân khấu – kịch; Lồng ghép tuyên truyền SKSS VTN trong các lễ hội truyền thống, giao lưu văn hóa, văn nghệ của đồng bào dân tộc; Nhà thuốc thân thiện…

 c. Xác định các ưu tiên và can thiệp đặc thù

 Trong điều kiện nguồn lực hạn chế của nước ta, xác định ưu tiên là một biện pháp quan trọng, cần thiết khi thực hiện các chương trình, can thiệp SKSS VTN từ Trung ương xuống địa phương. Can thiệp ưu tiên hướng vào các mục tiêu ưu tiên và đối tượng ưu tiên hoặc đối tượng có nguy cơ cao. Trong mỗi mục tiêu của chương trình, các hoạt động ưu tiên cũng cần được xác định. Xác định ưu tiên được dựa trên xác định tính cấp bách của vấn đề, khả năng khả thi tức thời và yêu cầu đầu ra. Cơ sở để xác định các ưu tiên gồm có: (1) Thông tin phân tích tình hình kinh tế – xã hội của địa phương; (2) Thông tin đánh giá nhu cầu SKSS VTN; (3) Thông tin của các nghiên cứu tác nghiệp; (4) Thông tin phân tích đối tác.

 Trong Kế hoạch tổng thể chăm sóc, bảo vệ và nâng cao sức khỏe cho VTN&TN Việt Nam, giai đoạn 2006-2010, các vấn đề ưu tiên cần được giải quyết là:

1. SKSS/sức khỏe tình dục;

2. Phòng, chống lây nhiễm HIV;

3. Tai nạn thương tích;

4. Sử dụng chất gây nghiện;

5. Sức khỏe tâm thần;

6. Công bằng trong tiếp cận với các dịch vụ sức khỏe cho nhóm VTN&TN có khó khăn và có hoàn cảnh đặc biệt.

Các can thiệp SKSS VTN nhằm mục đích:

 7.Cải thiện khả năng tiếp cận các dịch vụ chăm sóc SKSS có chất lượng; phòng tránh các bệnh lây truyền qua đường tình dục và HIV/AIDS;

 8.Hạn chế mức tăng và tiến tới giảm tỷ lệ mang thai ngoài ý muốn trong VTN&TN.

Các can thiệp SKSS VTN mang tính đặc thù cao, đảm bảo phù hợp với điều kiện phát triển kinh tế – xã hội của từng địa phương, và các đối tượng VTN khác nhau. Việc triển khai các hoạt động can thiệp cần tính đến các yếu tố tuổi, giới, các đặc trưng văn hóa, kinh tế – xã hội của các nhóm đối tượng đích (nhóm 10-14 tuổi, 15-19 tuổi, 20-24 tuổi; nhóm nam, nữ; nhóm sống ở thành thị – nông thôn, đồng bằng – miền núi; nhóm yếu thế, nhóm có hoàn cảnh đặc biệt, nhóm người dân tộc…).

9. Mở rộng phạm vi và vùng can thiệp

Khả năng mở rộng phạm vi cung cấp các dịch vụ SKSS VTN về mặt địa lý ở nước ta cần được xem xét dựa trên trình độ phát triển kinh tế – xã hội, thực trạng cơ sở hạ tầng và mức độ cam kết về tài chính của chính quyền các địa phương. Việc mở rộng phạm vi địa lý cho các can thiệp SKSS VTN cần có chiến lược và được chia thành nhiều giai đoạn. Giai đoạn đầu (khoảng 5-7 năm trước mắt), các dịch vụ SKSS VTN nên được triển khai ở vào các vùng đô thị (thành phố, thị xã) và một vài vùng nông thôn phát triển. Đối với các vùng đô thị, nên đẩy mạnh xã hội hóa trong cung cấp dịch vụ. Các hỗ trợ ban đầu có thể được huy động, sau đó tính bền vững phải được đảm bảo thông qua cơ chế lấy thu bù chi. Đối với các vùng nông thôn, ngân sách bao cấp nên được tăng cường để giảm các phí dịch vụ, thu hút khách hàng VTN&TN. Giai đoạn 2, các nguồn lực hỗ trợ lúc này cần dồn vào để nhân rộng các mô hình cung cấp dịch vụ SKSS VTN cho các vùng nông thôn kém phát triển và tiến dần đến vùng nông thôn miền núi, vùng sâu, xa, khó khăn.

 Ngay trong giai đoạn đầu, các vùng có những vấn đề SKSS VTN nổi cộm hoặc các vùng công nghiệp mới ở Đông Bắc bộ (Hà Nội, Hải Phòng, Quảng Ninh) và Đông Nam bộ (thành phố Hồ Chí Minh, Đồng Nai, Bình Dương, Bà Rịa – Vũng Tàu) nên được tập trung ưu tiên.

 Việc mở rộng phạm vi cung cấp dịch vụ SKSS VTN cần phải tính toán đến các yếu tố: mức biến động tự nhiên dân số; mức độ tập trung dân cư; mức độ di biến động của nhóm dân số VTN&TN giữa các vùng, tỉnh/thành phố.

 10. Cơ chế quản lý, điều phối và lồng ghép

 Chương trình, can thiệp SKSS VTN cần phải sự điều phối liên ngành, với sự phối kết hợp hợp lý giữa các cơ quan chính phủ như Bộ Y tế, Bộ GD-ĐT, các cơ quan thông tin đại chúng và các tổ chức chính trị xã hội như Đoàn thanh niên, Hội Phụ nữ… Hoạt động điều phối liên ngành là một biện pháp xã hội hóa nhằm nâng cao trách nhiệm của các Bộ, ngành, đồng thời phát huy sức mạnh tổng hợp của cả hệ thống xã hội, những thế mạnh và kinh nghiệm của các ngành trong các can thiệp SKSS VTN. Việc điều phối phải có sự phân cấp quản lý từ Trung ương xuống cơ sở. Ngành y tế phải giữ vai trò điều phối chủ đạo cũng như hỗ trợ kỹ thuật cho việc triển khai thực hiện, giám sát và đánh giá.

 Cơ chế giám sát, đánh giá cũng cần được thực hiện liên ngành. Các chỉ báo tổng hợp, bộ công cụ phục vụ cho việc giám sát và đánh giá cần được xây dựng và phát triển để đo lường mức độ tiến triển của các chương trình, can thiệp SKSS VTN được tiến hành. áp dụng phương pháp tiếp cận dựa trên cơ sở về quyền, trong quá trình thực hiện, giám sát, đánh giá các chương trình, can thiệp SKSS VTN, cần đảm bảo sự tham gia của VTN&TN.

 11. Xây dựng năng lực các cấp

 Xây dựng năng lực (quản lý, kỹ thuật) cho các đối tác ở các cấp là một khâu quan trọng, tiền đề đảm bảo cho các chương trình, can thiệp SKSS VTN được thực hiện hiệu quả. Việc xây dựng năng lực đòi hỏi cả nguồn lực con người lẫn tài chính đáng kể. Trong hệ thống Chính phủ, những năng lực cần được tăng cường cho các ban, ngành, đoàn thể tuyến Trung ương gồm: năng lực lập kế hoạch, điều phối, giám sát; ở cấp địa phương là năng lực thực hiện một chương trình SKSS VTN toàn diện. Các đối tác trong cộng đồng như các tổ chức phi chính phủ, các tổ chức cộng đồng hiện đang rất cần được nâng cao năng lực để triển khai các can thiệp hay cung cấp các dịch vụ SKSS hiệu quả cho VTN&TN. Chính vì vậy, một đánh giá về năng lực của các đối tác tham gia thực hiện chương trình cần phải được thực hiện. Đây là bước đầu tiên trong quá trình triển khai nhân rộng các can thiệp SKSS VTN. Nó giúp xác định các nhu cầu xây dựng năng lực, hỗ trợ kỹ thuật thiết yếu nhất cần được ưu tiên. Việc xây dựng năng lực được thực hiện thông qua các chương trình đào tạo, tập huấn; phát triển các hướng dẫn, các tiêu chuẩn về dịch vụ SKSS VTN và chính trong quá trình triển khai các can thiệp SKSS VTN trong thực tế.

 12. Hỗ trợ kỹ thuật và huy động tài chính

 Hỗ trợ kỹ thuật đầy đủ và hiệu quả cho các chương trình, can thiệp SKSS VTN là nhu cầu quan trọng trong điều kiện của nước ta. Cần thành lập các nhóm chuyên gia hỗ trợ kỹ thuật gồm các chuyên gia thuộc lĩnh vực SKSS, y tế cộng đồng, truyền thông, khoa học xã hội, tâm lý và các chuyên gia có kinh nghiệm về SKSS VTN của các tổ chức quốc tế và trong nước. Huy động sự giúp đỡ về mặt chuyên môn, kỹ thuật của các tổ chức chính phủ, phi chính phủ quốc tế.

 Chiến lược huy động tài chính cho các chương trình, can thiệp SKSS VTN nên áp dụng nhiều giải pháp khác nhau và dựa vào nhiều nguồn khác nhau như:

1. Ngân sách nhà nước và địa phương;

2. Viện trợ quốc tế;

3. Quỹ nhân đạo;

4. Quỹ cộng đồng và bảo hiểm;

5. Đóng góp của cá nhân.

Ngân sách nhà nước, địa phương sẽ là nguồn quan trọng để đảm bảo các chi phí tối thiểu, cơ bản cho việc thực hiện chương trình, song về lâu dài, đây phải là nguồn ngân sách chính chi cho việc triển khai các hoạt động. Nguồn viện trợ giúp phát triển và thực hiện các chương trình, dự án ưu tiên trong từng giai đoạn. Quỹ nhân đạo (trong nước và quốc tế) giúp cho cho một số can thiệp SKSS dành cho nhóm VTN&TN yếu thế. Quỹ cộng đồng và bảo hiểm dành cho đối tượng học sinh, sinh viên trong nhà trường. Nguồn đóng góp của cá nhân dành cho các dịch vụ SKSS VTN thân thiện. Đây là những chi trả trực tiếp của VTN khi nhận các dịch vụ thân thiện, song trước mắt cần được hỗ trợ một phần cho việc chi trả này bằng các dự án mục tiêu ngắn hạn./.

                                                                                                                                                                                                                                             Mai Xuân Phương

Phó Vụ trưởng Vụ truyền thông-Giáo dục

Tổng cục Dân số= KHHGĐ

                                                                                                                                                                                                                    

Những Con Số Giật Mình Về Mang Thai Ở Tuổi Vị Thành Niên

NHÌN RA THẾ GIỚI…

Theo số liệu của Quỹ Dân số Liên hợp quốc (UNFPA), hiện có khoảng hơn 500 triệu trẻ em gái đang sinh sống tại các nước đang phát triển. Trong số đó có hàng triệu trẻ em gái phải lập gia đình khi còn nhỏ tuổi; phải mang thai và sinh con khi các em chưa thực sự trưởng thành về mặt thể chất, tình cảm và chưa đủ trưởng thành về mặt xã hội để sẵn sàng làm mẹ. Cụ thể, trên toàn cầu, cứ 3 nữ  thanh niên  trong độ  tuổi  từ 20-24  thì có 1 người (tương đương với khoảng 70 triệu người) kết hôn trước lần sinh nhật thứ 18. Nếu xu hướng hiện nay không được cải thiện, trong vòng một thập kỷ tới sẽ có 142 triệu trẻ em gái kết hôn trước khi bước sang tuổi 18 (tính tới thời điểm năm 2020). Điều này có nghĩa là mỗi năm sẽ có 14,2 triệu trẻ em gái, hay mỗi ngày sẽ có 39 ngàn trẻ em gái kết hôn trước khi bước sang tuổi 18.

Bên cạnh đó, hàng năm có khoảng 16 triệu em gái tuổi từ 15-19 sinh con và cứ 10 trẻ vị thành niên (VTN) thuộc nhóm này thì có 9 VTN đã lập gia đình. Khu vực châu Phi thuộc tiểu vùng Sa mạc Shahara là nơi có có tỷ lệ sinh ở tuổi VTN cao nhất với 120 trẻ/1.000 trẻ VTN trong độ tuổi từ 13-19. Ở khu vực châu Mỹ La tinh và vùng Caribbean, tỷ lệ sinh con ở  tuổi VTN vẫn ở mức cao và chỉ mới bắt đầu giảm gần đây. Tương tự, số lượng bà mẹ sinh con ở tuổi VTN tại các nước ở khu vực Đông Nam Á hiện vẫn rất cao.

Đáng lưu tâm là các biến chứng khi mang thai và khi sinh  tiếp tục là những nguyên nhân hàng đầu gây ra tử vong mẹ cho các em gái tuổi từ 15-19 ở các nước có thu nhập thấp và thu nhập trung bình. Theo thống kê của Tổ chức Y tế thế giới (WHO) tỷ  lệ  thương  tật  và  tử  vong do  nạo  thai  không  an  toàn  ở  trẻ  em  gái  VTN và nữ thanh niên trẻ cao; ước tính năm 2008 số ca phá thai không an toàn ở vị thành  niên trong độ  tuổi từ 15-19 tại các nước đang phát triển là khoảng 3 triệu ca; thai chết  lưu và  tử vong sơ sinh chiếm hơn 50% các ca sinh của các bà mẹ dưới 20 tuổi so với những bà mẹ từ 20-29 tuổi…

… VÀ VIỆT NAM

Theo thống kê của Vụ Sức khỏe Bà mẹ trẻ em-Bộ Y tế, trung bình mỗi năm cả nước có khoảng 300 đến 400 ngàn ca phá thai ở độ tuổi 15-19 được báo cáo chính thức, trong đó 60-70% là học sinh, sinh viên. Còn theo Tổng cục Dân số-KHHGĐ, mặc dù tỷ lệ phá thai ở Việt Nam trong 10 năm trở lại đây giảm, nhưng tỷ lệ nạo phá thai ở trẻ VTN, thanh niên lại có dấu hiệu gia tăng – chiếm hơn 20% các trường hợp phá thai. Cụ thể, báo cáo của Bệnh viện Phụ sản Trung ương tại một cuộc hội thảo được tổ chức mới đây cho thấy, thực trạng phá thai to ở VTN chiếm tỷ lệ khá cao, hơn 10% trong tổng số ca phá thai; các trường hợp phá thai to trên gặp nhiều nhất ở đối tượng học sinh, sinh viên. Còn theo báo cáo của Trung tâm Chăm sóc SKSS TP Hồ Chí Minh năm 2017, cứ 100 trường hợp trẻ sinh ra sống lại có 73 trường hợp phá thai, trong đó 2,4% là VTN… Điều đáng lưu ý, đây mới chỉ là thống kê từ các bệnh viện khu vực nhà nước, còn số liệu từ các bệnh viện tư, phòng khám tư thì chưa thống kê được…

Các kết quả nghiên cứu cũng cho thấy, độ tuổi quan hệ tình dục lần đầu ở VTN Việt Nam ngày càng sớm. Tuy nhiên, kiến thức của VTN về phòng tránh thai, HIV và các bệnh lây truyền qua đường tình dục khác vẫn còn rất hạn chế – chỉ có khoảng 20,7% sử dụng biện pháp tránh thai trong lần quan hệ tình dục đầu tiên.

KHUYẾN NGHỊ CỦA TỔNG CỤC DÂN SỐ

Không chỉ đơn thuần là một vấn đề về sức khỏe, mang thai ở tuổi VTN làm mất đi tiềm năng ở các em, rút ngắn cơ hội học hành, đánh mất hoặc hạn chế sự lựa chọn của các em trong cuộc sống hay khiến những bà mẹ trẻ và cộng  đồng nơi họ sinh sống chìm trong cảnh đói nghèo… Do đó, Vụ Truyền thông & Giáo dục,Tổng cục Dân số xin khuyến nghị :

Chúng ta cần thực hiện đầu tư sớm một cách có chiến lược vào giáo dục, chăm sóc sức khỏe và cuộc sống của trẻ em gái VTN, đồng thời bảo vệ các quyền con người cho các em. Việc này sẽ tạo ra vô số các tác động tích cực  tới cuộc sống của các em, giúp  làm giảm  tình  trạng mang  thai ngoài ý muốn ở tuổi VTN – một tình trạng có thể dẫn tới nhiều nguy hiểm cho các em. 

Thực hiện chương trình giáo dục giới tính toàn diện kết hợp với cung cấp dịch vụ SKSS và dịch vụ phòng chống HIV cho VTN. Cần đảm bảo rằng các dịch vụ này được cung cấp tới VTN một cách tế nhị, đảm bảo bí mật, không mang tính phán xét và không phân biệt đối xử, không hạn chế về mặt pháp  lý và phù hợp với các quy định quốc tế.

Ngăn ngừa kết hôn sớm bằng cách nâng tuổi kết hôn tối thiểu lên 18 tuổi, đảm bảo rằng các em gái được đi học và khuyến khích các em tham gia học trên bậc tiểu học. Giải quyết các nguyên nhân cơ bản khiến hiện tượng kết hôn sớm vẫn còn tồn tại, xác định các biện pháp thay thế và tạo cơ hội cho các em gái có nguy cơ cao, đồng thời phối hợp chặt chẽ với cộng đồng nhằm tạo sự hỗ trợ cho những động thái này.

Ủng hộ việc thực hiện các chương trình mang lại nhiều tác động tích cực trong đó xác định được các đối tượng và xây dựng giá trị của nhóm trẻ em gái VTN có nguy cơ phải kết hôn sớm và có  thai ngoài ý muốn. Tạo ra các chương trình có mô hình không gian an toàn cho các em gái gặp gỡ nhau và gặp gỡ các cán bộ tư vấn, đồng thời đây là nơi thực hiện nội dung các chương trình giáo dục kỹ năng sống, nơi học tập, chăm sóc sức khỏe em và là nơi các em có thể tiếp cận được với các dịch vụ chăm sóc sức khỏe sinh sản. /.

Mang  thai  ở  tuổi  vị  thành  niên  là một  vấn  đề  cần  giải quyết  trong quá trình phát triển. Năm nay, 2019 TW Hội LHPN Việt Nam đã phát động là năm “An toàn cho phụ nữ và trẻ em”. Và vì vậy, chương trình phối hợp để đẩy mạnh hơn nữa công tác truyền thông, giáo dục Dân số và Phát triển nói chung cũng như giáo dục giới tính, chăm sóc sức khỏe sinh và sức khỏe tình dục cho VTN/TN nói riêng giữa Tổng cục Dân số, Bộ Y tế với Bộ Lao động-Thương bình và Xã hội cùng với Trung ương Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam, Trung ương Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh là một Chương trình hết sức cần thiết. Với tinh thần đó, chúng ta cần đầu tư nhiều hơn vào trẻ em gái vì lợi ích của chính các em. Các  em gái được học hành và khỏe mạnh sẽ có nhiều  cơ hội để phát huy hết tiềm năng của mình, đồng thời sẽ có nhiều cơ hội để nhận các quyền mà mình được hưởng. Các em cũng có thể sẽ kết hôn muộn hơn, trì hoãn việc sinh con ở tuổi muộn hơn, sinh ra những đứa trẻ khỏe mạnh hơn và có khả năng có thu nhập cao hơn. Các em có thể tự giúp mình và gia đình của mình thoát khỏi đói nghèo. Các em sẽ chính là động lực tạo ra những sự thay đổi cho cộng đồng và cho các thế hệ tương lai./.  

Bs Mai Xuân Phương- Phó vụ trưởng Vụ Truyền thông – Giáo dục, Tổng cục Dân số – KHHGĐ

Có Thai Ngoài Ý Muốn Ở Tuổi Vị Thành Niên

Việc có thai ngoài ý muốn ở tuổi vị thành niên là một cú sốc đối với gia đình. Khi trẻ lo sợ phải đối mặt với sự chối từ hoặc sỉ vả, trẻ có thể phá thai hoặc giữ bí mật về việc mang thai lâu nhất có thể.

Khi có thai ngoài ý muốn, trẻ vị thành niên thường phản ứng như thế nào?

Dù trong tình huống nào, việc có thai ngoài ý muốn ở tuổi vị thành niên vẫn là một cú sốc đối với gia đình và việc này không hề được chào đón một chút nào cả. Những người lâm vào tình cảnh này thường sống trong hỗn loạn, ít nhất là một thời gian. Sau đó, trẻ bắt buộc phải đưa ra quyết định đau đớn nhất trong cuộc đời mình. Đó là giữ lại đứa trẻ, như lựa chọn của 50% các bà mẹ tuổi vị thành niên, hay là bỏ thai?

Trẻ có thai ngoài ý muốn thường cảm thấy lo sợ và thậm chí còn nghĩ đến chuyện phá thai để che giấu bí mật này

Tuy nhiên, sự lo lắng về phản ứng của cha và mẹ không phải là lý do duy nhất khiến một cô gái giấu việc mình mang thai. Người phụ nữ trẻ có thể chối bỏ khủng khiếp, chối bỏ đơn giản là do họ không thể chấp nhận thực tế này. Ngày nay, thời trang áo rộng kiến các cô gái dễ dàng che giấu bụng bầu, và có thể che giấu trong suốt thời gian mang thai mà không ai nhận ra bụng cô ấy đang to dần. Vì vậy, nếu nghi ngờ con mình mang thai, mẹ có thể để ý một số dấu hiệu sau đây.

Các dấu hiệu cho biết trẻ vị thành niên mang thai

Trễ kinh. Trễ một hoặc nhiều kỳ kinh là dấu hiệu kinh điển của việc mang thai. Nhưng điều này lại khó khăn với trẻ ở tuổi vị thành niên, khi mà chu kỳ kinh nguyệt của trẻ chưa đều đặn. Vấn đề này cũng khó xác định đối với những trẻ bị tắt kinh do chế độ ăn uống hoặc tập luyện thể thao quá độ.

Buồn nôn hoặc nôn mửa.

Đột ngột ác cảm dữ dội với một số loại thức ăn, đặc biệt là thức ăn nhiều dầu mỡ, đồ chiên.

Núm vú hoặc vú bị đau.

Mệt mỏi bất thường.

Đi tiểu thường xuyên.

Thay đổi cảm xúc bất thường.

Các nguy cơ sức khỏe nếu trẻ vị thành niên có thai ngoài ý muốn

Việc có thai ngoài ý muốn ở độ tuổi vị thành niên sẽ có nhiều nguy cơ về sức khỏe cho cả mẹ và bé hơn so với những phụ nữ mang thai ở độ tuổi 20, 30. Nhưng nếu trẻ vị thành niên được chăm sóc, được hỗ trợ thì những nguy cơ này có thể giảm.

Theo thống kê có khoảng 1/3 các thiếu nữ từ 15 -19 tuổi và phân nửa các bé gái dưới 15 tuổi có thai ngoài ý muốn và không nhận được bất kỳ sự chăm sóc nào trong ba tháng đầu thai kỳ. Thiếu sự chăm sóc về y khoa có thể dẫn đến những vấn đề về sau, và nếu họ quyết định giữ đứa trẻ, nguy cơ cả mẹ lẫn bé gặp nguy hiểm sẽ tăng cao.

Nếu trẻ vị thành niên có thai ngoài ý muốn, trẻ có thể gặp một số vấn đề sau:

Thiếu chất dinh dưỡng: Không bổ sung đầy đủ các chất dinh dưỡng trong khi mang thai ảnh hưởng đến sự phát triển của thai nhi. Ví dụ như thiếu axit folic có thể gây khuyết tật bẩm sinh ở bé.

Huyết áp cao: Trẻ mang thai tuổi vị thành niên có nguy cơ tăng huyết áp cao hơn so với phụ nữ mang thai ở những năm 20 hoặc 30 tuổi. Trẻ cũng có nguy cơ bị tiền sản giật cao hơn.

Trẻ vị thành niên có thai ngoài ý muốn sẽ có nguy cơ tăng huyết áp cao hơn so với phụ nữ mang thai trên 20 tuổi

Sinh non: Một thai kỳ đủ tháng kéo dài khoảng 40 tuần. Một em bé chào đời trước 37 tuần được xem là trẻ sinh non. Bé được sinh ra càng sớm, càng có nhiều nguy cơ gặp các vấn đề về hô hấp, tiêu hóa, thị lực, nhận thức và các vấn đề khác.

Sinh con nhẹ cân: Trẻ vị thành niên có nguy cơ sinh con nhẹ cân cao. Trẻ sơ sinh nhẹ cân có cân nặng chỉ khoảng 1,5 – 2,5 kg.

Nhiễm các bệnh lây qua đường tình dục: Đối với trẻ mang thai tuổi vị thành niên có quan hệ tình dục trong khi mang thai, các bệnh lây qua đường tình dục, như chlamydia và HIV, là một mối quan tâm lớn, có thể ảnh hưởng đến tử cung và thai nhi.

Cảm giác một mình và cô đơn: Đặc biệt đối với những trẻ nghĩ rằng trẻ không thể nói cho cha mẹ biết việc mình mang thai, trẻ sẽ cảm thấy hoảng sợ, cô đơn, và đó là một vấn đề thực sự. Nếu không có sự hỗ trợ từ gia đình hoặc những người lớn khác, trẻ sẽ ít có khả năng ăn uống tốt, tập thể dục hoặc nghỉ ngơi đầy đủ, có thể ảnh hưởng đến sức khỏe thể chất và tinh thần của cả mẹ và bé.

Trẻ vị thành niên sẽ có cảm giác một mình và cô đơn nếu không có sự hỗ trợ của gia đình

Trầm cảm sau sinh: Trẻ mang thai tuổi vị thành niên có nguy cơ bị trầm cảm sau sinh cao hơn. Trầm cảm có thể gây trở ngại cho việc chăm sóc trẻ sơ sinh và cả bà mẹ trẻ, nhưng nó có thể được điều trị.

Làm thế nào để giảm các nguy cơ về sức khỏe cho trẻ mang thai tuổi vị thành niên?

Các gợi ý sau đây có thể giúp trẻ vị thành niên có thai ngoài ý muốn giảm các nguy cơ về sức khỏe:

Đi khám thai sớm: đi khám càng sớm càng tốt nếu trẻ nghĩ rằng mình đã có thai.

Không hút thuốc lá, dùng ma túy hay uống rượu: chúng gây hại cho thai nhi và cả sự phát triển của bà mẹ vị thành niên. Nếu trẻ không thể tự mình bỏ các thứ trên, bạn hãy nhờ sự giúp đỡ từ các bác sĩ, chuyên gia.

Dùng bao cao su khi quan hệ tình dục trong khi mang thai để ngăn nhiễm các bệnh lây qua đường tình dục.

Dùng đủ vitamin trước khi sinh: ít nhất 0,4 mg axit folic mỗi ngày để giúp ngăn ngừa khuyết tật bẩm sinh cho em bé. Lý tưởng là nên dùng trước khi mang thai.

Hỗ trợ về tình cảm: đây là điều cực kỳ quan trọng. Sự hỗ trợ từ bạn bè, gia đình và cha của đứa bé sẽ là nguồn động lực lớn giúp trẻ vượt qua giai đoạn khó khăn này đấy.

Mang Thai Ở Tuổi Vị Thành Niên, Thanh Niên: Ảnh Hưởng Sức Khỏe Mẹ, Tai Biến Thai Kỳ Cao

Trẻ vị thành niên mang thai sớm dễ gặp các biến chứng do thai nghén, tăng nguy cơ tử vong mẹ, thai nhi kém phát triển, dễ mắc bệnh tật, gặp nhiều khó khăn cả thể chất lẫn tinh thần. Nhằm hiểu rõ tác hại của tình trạng mang thai sớm ở độ tuổi vị thành niên, thanh niên (VTN/TN), phóng viên đã có cuộc trao đổi với bác sĩ Bùi Quốc Hùng – Giám đốc Trung tâm Chăm sóc sức khỏe sinh sản tỉnh.

Phóng viên: Thưa bác sĩ Bùi Quốc Hùng, bác sĩ có thể cho biết thực trạng mang thai của VTN/TN hiện nay và hậu quả nguy hại khi nạo hút thai ở độ tuổi này?

Bác sĩ Bùi Quốc Hùng: Thực tế cho thấy, tỷ lệ trẻ VTN/TN mang thai ngoài ý muốn ngày càng tăng. Theo thống kê của Quỹ Dân số Liên Hiệp quốc (2015), số trẻ em gái đã kết hôn trước tuổi 18 tại châu Á – Thái Bình Dương là 59 triệu trường hợp. Số trẻ em gái tuổi từ 15 đến 17 tại các nước đang phát triển đã từng sinh con là 20.000 trường hợp. Ước tính số ca phá thai không an toàn ở trẻ em gái tuổi từ 15 đến 19 là 3,2 triệu ca. Tại Việt Nam, theo thống kê, mỗi năm cả nước vẫn còn gần 6.000 ca nạo phá thai tuổi VTN/TN. Riêng tại Hà Tĩnh, trong năm 2017 có 7 em mang thai ngoài ý muốn và có 44 ca phá thai . Sáu tháng đầu năm 2018 có 08 ca phá thai. Đây chỉ là con số thể hiện phần nổi của “tảng băng chìm” bởi thực tế là hầu hết các ca nạo phá thai ở trẻ VTN đều được thực hiện ở các cơ sở y tế tư nhân vì tâm lý vào bệnh viện sợ gặp người quen, sợ phải khai báo thông tin.

Vì đa số trẻ có chu kỳ kinh không đều và chưa có ý thức đi khám thai sớm nên có thể phát hiện thai trễ làm tăng tai biến và biến chứng khi hút nạo thai. Tai biến và biến chứng của nạo hút thai rất nhiều. Những biến chứng có thể phát hiện xử lý ngay như chảy máu, đau, dị ứng với thuốc, thủng tử cung… Những biến chứng âm thầm nhưng ảnh hưởng rất nhiều đến khả năng sinh sản sau này của trẻ VTN/TN như dính buồng tử cung, tắc ống dẫn trứng, nhiễm trùng tử cung, nhiễm trùng ống dẫn trứng. Không chỉ vậy, mang thai ngoài ý muốn sẽ ảnh hưởng tiêu cực lên tâm lý của trẻ. Trước và sau khi hút – nạo thai trẻ VTN/TN luôn có mặc cảm tội lỗi, tâm lý sợ hãi và sẽ ít tiếp xúc với những người xung quanh. Khi lâm vào tình trạng mang thai ngoài ý muốn ở tuổi VTN, các em sẽ không có đủ kiến thức, kỹ năng, nghị lực để giải quyết vấn đề, không thể dự tính được cuộc sống của mình sẽ như thế nào với sự ra đời của một em bé.

Một  buổi giao lưu đối thoại sức khỏe sinh sản vị thành niên, thanh niên tại xã Thạch Hạ, TP Hà Tĩnh

Phóng viên: Vậy nguyên nhân mang thai sớm ở trẻ vị thành niên là gì, thưa bác sĩ?

Bác sĩ Bùi Quốc Hùng: Tuổi vị thành niên là giai đoạn chuyển tiếp quan trọng từ tuổi thiếu niên để bước vào tuổi người lớn, nó đánh dấu bằng giai đoạn tuổi dậy thì. Khi bước vào tuổi dậy thì, các em có những thay đổi lớn cả về tâm lý và thể chất. Các em thường muốn khám phá, tìm tòi, tò mò về giới tính của mình và của người khác giới; hay buồn vui bất chợt; muốn khẳng định mình nhưng lại dễ bị ảnh hưởng bởi bạn đồng lứa về các vấn đề tình dục. Sự thiếu hiểu biết về thụ thai và các biện pháp tránh thai hiện đại; chưa hiểu hết tác hại và sự nguy hiểm của việc mang thai ở lứa tuổi vị thành niên, chưa được giáo dục đầy đủ về sức khỏe giới tính là những nguyên nhân mang thai sớm ở trẻ VTN. Do vậy, khi có quan hệ tình dục các em rất dễ bị mang thai và thường để lại nhiều hậu quả xấu.

Phóng viên: Để giảm tình trạng mang thai sớm ở tuổi vị thành niên, thanh niên, thời gian qua tỉnh Hà Tĩnh đã triển khai các giải pháp nào, thưa bác sĩ?

Bác sĩ Bùi Quốc Hùng: Từ năm 2015, Ủy ban nhân dân tỉnh đã hỗ trợ kinh phí để thực hiện “Kế hoạch tổng thể Quốc gia về bảo vệ, chăm sóc và nâng cao sức khỏe VTN/TN Việt Nam giai đoạn 2013-2015, định hướng đến năm 2020” nhằm giúp các em có thêm kiến thức về chăm sóc sức khỏe sinh sản để phòng tránh và hạn chế những tai biến, rủi ro có thể xảy ra, ảnh hưởng tới sức khỏe, tinh thần, học tập và tương lai. Trên cơ sở nguồn kinh phí hỗ trợ của tỉnh, chúng tôi đã phân bổ về 13 huyện, thành, thị để xây dựng 15 Câu lạc bộ, góc tuyên truyền thân thiện và đặc biệt là phối hợp với các nhà trường đẩy mạnh công tác tuyên truyền trong mọi tầng lớp học sinh từ lớp 5 của bậc tiểu học đến THCS, THPT. Bằng hình thức sân khấu hóa, hình ảnh trực quan sinh động  trong  tổ chức sinh hoạt Câu lạc bộ, nói chuyện chuyên đề, qua đó tăng cường giáo dục giới tính, cho trẻ biết những nguy cơ có thể xảy ra nếu có thai và phá thai; cung cấp và hướng dẫn sử dụng các phương pháp tránh thai hiện đại.

Để giảm tình trạng nạo phá thai ngoài ý muốn tuổi VTN/TN, giải pháp bền vững là phải có sự phối hợp đồng bộ giữa gia đình – nhà trường – xã hội. Từ đó giúp các em được trang bị đầy đủ kiến thức về giới tính và sức khỏe sinh sản sẽ góp phần nâng cao chất lượng dân số trong tương lai.

Đoàn Loan

Cập nhật thông tin chi tiết về Thực Trạng Chung Về Mang Thai Tuổi Vị Thành Niên Và Các Chương Trình trên website Dsb.edu.vn. Hy vọng nội dung bài viết sẽ đáp ứng được nhu cầu của bạn, chúng tôi sẽ thường xuyên cập nhật mới nội dung để bạn nhận được thông tin nhanh chóng và chính xác nhất. Chúc bạn một ngày tốt lành!