Xu Hướng 11/2023 # Thủy Đậu Ở Phụ Nữ Có Thai # Top 12 Xem Nhiều

Bạn đang xem bài viết Thủy Đậu Ở Phụ Nữ Có Thai được cập nhật mới nhất tháng 11 năm 2023 trên website Dsb.edu.vn. Hy vọng những thông tin mà chúng tôi đã chia sẻ là hữu ích với bạn. Nếu nội dung hay, ý nghĩa bạn hãy chia sẻ với bạn bè của mình và luôn theo dõi, ủng hộ chúng tôi để cập nhật những thông tin mới nhất.

1.ĐẠI CƯƠNG.

Virus Varicella-zoster (VZV) là một trong tám loại herpes virus gây bệnh ở người. Nhiễm thủy đậu ở trẻ em thường nhẹ, bệnh tự giới hạn trong 1 – 2 tuần, trong khi nhiễm trùng ở người lớn thường nặng hơn với các biến chứng nặng có thể dẫn tới tử vong. Thủy đậu ở phụ nữ có thai thường có nhiều biến chứng, viêm phổi do thủy đậu thường nặng nề và có thể dẫn đến những bất thường bẩm sinh cho con.

Nhiễm VZV gây ra hai dạng bệnh khác nhau trên lâm sàng: varicella (thủy đậu) và herpes zoster (bệnh zona).

Thủy đậu: Nhiễm VZV nguyên phát dẫn đến phát ban mụn nước lan tỏa. Thủy đậu tiên phát ở phụ nữ có thai có thể ảnh hưởng nghiêm trọng tới sức khỏe của mẹ và thai nhi:

< 2% thủy đậu gặp ở người lớn nhưng tỷ lệ tỷ vong do thủy đậu chiếm ¼ ở độ tuổi này. Vì vậy, phụ nữ mang thai là nhóm bệnh nhân nguy cơ biến chứng và tử vong cao đáng kể.

Mẹ mắc thủy đậu trong thời kỳ đầu mang thai (8 – 20 tuần), thai nhi có nguy cơ mắc hội chứng thủy đậu bẩm sinh, đặc trưng bởi chứng chi ngắn, tổn thương da, bất thường về thần kinh và cấu trúc mắt.

Bệnh thủy đậu ở bà mẹ khi mang thai có nguy cơ phát triển bệnh zona ở trẻ sơ sinh và trẻ nhỏ.

Mẹ mắc bệnh thủy đậu ngay trước hoặc ngay sau khi sinh, em bé có nguy cơ mắc bệnh thủy đậu sơ sinh.

2.DỊCH TỄ HỌC

Tỷ lệ mắc thủy đậu không cao hơn ở phụ nữ mang thai so với mặt bằng chung của người lớn, nhưng mức độ nghiêm trọng của bệnh thường nặng nề hơn. Viêm phổi do thủy đậu chiếm 10 – 20 % các nhiễm trùng gây biến chứng ở thai kì. Các yếu tố nguy cơ của viêm phổi do thủy đậu khi mang thai bao gồm tiền sử hút thuốc và nhiều hơn 100 tổn thương mụn nước ở da.

Các nghiên cứu thực hiện từ năm 1986 – 2002 cho thấy hội chứng thủy đậu bẩm sinh là không phổ biến, 2% phụ nữ mang thai nhiễm thủy đậu trong 20 tuần đầu thai kì sinh con mắc hội chứng thủy đậu bẩm sinh. Trong nghiên cứu tiến cứu lớn nhất về bệnh thủy đậu ở mẹ, đã có 344 trường hợp mắc zona ở mẹ và không có trường hợp nào mắc bệnh thủy đậu bẩm sinh ở con.

Tiêm phòng thủy đậu đã làm giảm số lượng nhiễm trùng thủy đậu ở mẹ và thai nhi, giảm 85% các trường hợp mắc bệnh thủy đậu ở trẻ sơ sinh so với thời kì chưa có vaccine thủy đậu.

3.ĐẶC ĐIỂM LÂM SÀNG

3.1 Thủy đậu không biến chứng: Hình thái lâm sàng giống thủy đậu thông thường.

– Cơ năng: Thường ngứa, có thể sốt nhẹ, mệt mỏi, đau mỏi cơ 1 -4 ngày trước khi phát ban da.

– Phát ban da: thường  khởi đầu ở mặt, sau đó lan đến thân mình và tứ chi, tiến triển từ 1 – 4 ngày. Bắt đầu là sẩn đó , sau đó hình thành mụn nước lõm giữa, nếu bội nhiễm hình thành các mụn mủ. Các tổn thương vỡ sau đó đóng vảy, vảy bong có thể để lại dát tăng giảm sắc tố do viêm.

Hình 1: Phát ban đặc trưng của thủy đậu: Mụn nước, mụn mủ lõm giữa.

3.2 Thủy đậu có biến chứng;

Viêm phổi do thủy đậu là biến chứng thường gặp nhất do thủy đậu ở phụ nữ có thai. Các dấu hiệu và triệu chứng chủ yếu là ho, khó thở, sốt và thở nhanh. Viêm phổi thường phát triển trong vòng một tuần sau khi phát ban. Diễn biến lâm sàng không thể dự đoán và có thể nhanh chóng tiến triển đến tình trạng thiếu oxy và suy hô hấp. X-quang ngực có hình ảnh thâm nhiễm lan tỏa hoặc các nốt  trong phân bố quanh 2 rốn phổi.

4.BIẾN CHỨNG

4.1 Hội chứng thủy đậu bẩm sinh, được mô tả lần đầu tiên vào năm 1947, được đặc trưng bởi:

Sẹo da

Bất thường về thần kinh (ví dụ, chậm phát triển tâm thần, tật đầu nhỏ, não úng thủy, co giật, hội chứng Horner)

Bất thường ở mắt (ví dụ, teo dây thần kinh thị giác, đục thủy tinh thể, viêm màng bồ đào, rung giật nhãn cầu)

Bất thường về chi thể (chi ngắn, teo, nhược chi)

Bất thường đường tiêu hóa (trào ngược dạ dày, tắc ruột)

Cân nặng khi sinh thấp

Hội chứng thủy đậu bẩm sinh có tỷ lệ tử vong là 30% trong vài tháng đầu đời và 15% nguy cơ phát triển zona trong bốn năm đầu đời.

Hình 2: Các đặc trưng lâm sàng của hội chứng thủy đậu bẩm sinh

4.3 Nhiễm thủy đậu sơ sinh – Nhiễm thủy đậu sơ sinh là kết quả của việc truyền virus từ mẹ sang thai nhi ngay trước khi sinh ( 5 ngày trước sinh đến 2 ngày sau sinh).

Hình 3: Tổn thương thủy đậu ở trẻ sơ sinh 5 ngày tuổi có mẹ mắc thủy đậu thai kì

5.CHẨN ĐOÁN

5.1 Thủy đậu thai kì:

Chẩn đoán dựa vào lâm sàng.

Nếu có nghi ngờ về chẩn đoán lâm sàng, có thể làm thêm xét nghiệm PCR dịch mụn nước hoặc xét nghiệm miễn dịch huỳnh quang. VZV cũng có thể được nuôi cấy từ dịch mụn nước, mặc dù virus nhân lên chậm và nuôi cấy kém nhạy hơn các kỹ thuật phát hiện trực tiếp.

Xét nghiệm huyết thanh thường không cần thiết để chẩn đoán bệnh thủy đậu ở mẹ và có thể gây nhầm lẫn do các xét nghiệm khác nhau về độ nhạy và độ đặc hiệu.

Chẩn đoán viêm phổi do varicella nên được xem xét khi một phụ nữ mang thai có tổn thương da điển hình, tiếp xúc với nguồn lây và có các triệu chứng hô hấp.

5.2 Hội chứng varicella bẩm sinh

Chẩn đoán trước sinh – Sau khi nhiễm trùng mẹ, nguy cơ mắc hội chứng thủy đậu bẩm sinh có thể được ước tính bằng cách sử dụng xét nghiệm PCR máu hoặc nước ối thai nhi tìm DNA VZV kết hợp với siêu âm để phát hiện các bất thường của thai nhi.

Xét nghiệm PCR có độ nhạy cao, thực hiện từ tuần 17 -21 thai kì. Siêu âm hình thái thai nên thực hiện năm tuần sau khi nhiễm trùng mẹ để đánh giá các bất thường của thai nhi phù hợp với hội chứng thủy đậu bẩm sinh, siêu âm lặp lại từ 22 đến 24 tuần được chỉ định. Nếu siêu âm lặp lại là bình thường, nguy cơ hội chứng varicella bẩm sinh là rất thấp. Nếu siêu âm cho thấy bằng chứng của hội chứng thủy đậu bẩm sinh, mẹ nên được tư vấn về khả năng mắc bệnh thai nhi.

Chẩn đoán sau sinh – Chẩn đoán hội chứng thủy đậu bẩm sinh dựa vào.

Tiền sử nhiễm thủy đậu của mẹ trong ba tháng đầu hoặc 3 tháng giữa của thai kỳ

Bất thường thai nhi phù hợp với hội chứng thủy đậu bẩm sinh

Bằng chứng nhiễm trùng VZV trong tử cung, dựa vào: xét nghiệm PCR tìm DNA virus ở trẻ sơ sinh; sự hiện diện của kháng thể IgM đặc hiệu VZV trong máu cuống rốn; sự tồn tại của VZV IgG sau bảy tháng tuổi; mắc bệnh zona trong giai đoạn sớm.

6.ĐIỀU TRỊ THỦY ĐẬU TRONG THAI KÌ

6.1 Thủy đậu không biến chứng.

– Khuyến cáo điều trị bằng acyclovir đường uống cho tất cả phụ nữ mang thai: 800 mg x 5 lần/ngày x 7 ngày, điều trị bằng acyclovir có hiệu quả nhất trong vòng 24 giờ đầu.

Chưa có nghiên cứu về sử dụng acyclovir đường uống trong điều trị thủy đậu không biến chứng ở phụ nữ mang thai. Mặc dù dữ liệu động vật và dữ liệu quan sát từ phụ nữ có thai lớn không cho thấy khả năng gây quái thai của acyclovir. Một nghiên cứu tiến cứu trên thai kỳ phơi nhiễm acyclovir cho thấy tăng tỷ lệ dị tật bẩm sinh hoặc thay đổi mô hình dị tật bẩm sinh ở 596 trẻ được theo dõi.

Một thử nghiệm ngẫu nhiên đối chứng giả dược ở người trưởng thành nam và nữ đánh giá hiệu quả của acyclovir trong vòng 72 giờ kể từ khi khởi phát triệu chứng cho thấy vết thương ngoài da lành nhanh hơn và thời gian sốt rút ngắn hơn.

6.2 Viêm phổi do thủy đậu

– Viêm phổi do thủy đậu ở thai kì là một cấp cứu y tế, tỷ lệ tử vong ở phụ nữ mang thai khi chưa có thuốc kháng virus là 36- 40%. Mặc dù không có thử nghiệm ngẫu nhiên có kiểm soát acyclovir trong điều trị viêm phổi thủy đậu, dữ liệu quan sát cho thấy tác động có lợi của liệu pháp kháng vi-rút đối với tỷ lệ tử vong của mẹ.

Một nghiên cứu hồi cứu 21 trường hợp viêm phổi do varicella ở phụ nữ mang thai được điều trị bằng acyclovir, tỷ lệ tử vong là 14%, thấp hơn so với nhóm phụ nữ không được điều trị.

Một nghiên cứu quan sát trên 18 bệnh nhân bị viêm phổi thủy đậu, 12 bệnh nhân trong đó cần đặt nội khí quản và thở máy được điều trị bằng acyclovir, tỷ lệ tử vong là 0%.

Mặc dù acyclovir đi qua nhau thai, chưa có dữ liệu chứng minh thuốc kháng vi rút này có làm giảm nguy cơ mắc hội chứng vthủy đậu bẩm sinh hay không.

7.TÓM TẮT VÀ KIẾN NGHỊ

Nhiễm virut Varicella-zoster (VZV) gây ra hai dạng bệnh khác nhau trên lâm sàng: varicella (thủy đậu) và herpes zoster (bệnh zona). Thủy đậu thường nhẹ, tự giới hạn ở trẻ em khỏe mạnh, nhưng đôi khi có thể dẫn đến bệnh tật nghiêm trọng khi mang thai.

Tỷ lệ mắc bệnh thủy đậu thấp ở người lớn vì hầu hết đều có kháng thể với virus. Mặc dù tỷ lệ mắc bệnh thủy đậu không tăng ở nhóm phụ nữ mang thai, nhưng mức độ nghiêm trọng của bệnh cao hơn trong thai kỳ.

Tỷ lệ mắc hội chứng thủy đậu bẩm sinh ở phụ nữ có thai mắc thủy đậu thường thấp (0,4-2%).

Varicella rất dễ lây lan, thời gian dễ lây lan nhất từ một đến hai ngày trước khi phát ban cho đến khi các tổn thương bị vỡ. Lây truyền VZV từ mẹ sang con có thể xảy ra ở tử cung, chu sinh hoặc sau sinh.

Một trong những biến chứng thường gặp nhất cho mẹ nhiễm thủy đậu thai kỳ là viêm phổi, diễn biến lâm sàng là không thể dự đoán và có thể nhanh chóng tiến triển đến tình trạng thiếu oxy và suy hô hấp, với tỷ lệ tử vong cao.

Hội chứng thủy đậu bẩm sinh được đặc trưng bởi sẹo ở da, chậm phát triển và các bất thường về thần kinh, mắt và chi.

Chẩn đoán nhiễm trùng thủy đậu ở mẹ dựa vào lâm sàng với các phát ban mụn nước đặc trưng.

Sử dụng xét nghiệm PCR của máu thai nhi hoặc nước ối để tìm VZV DNA có thể dự đoán khả năng mắc thủy đậu ở con, kết hợp với siêu âm để phát hiện các bất thường cấu trúc của thai nhi.

Acyclovir không gây quái thai, khuyến cáo sử dụng acyclovir đường uống cho phụ nữ mang thai nhiễm thủy đậu không biến chứng (Độ 2C), cho phụ nữ mang thai bị viêm phổi thủy đậu (Độ 1B). Acyclovir nên được tiêm tĩnh mạch với liều 10 mg / kg cứ sau 8 giờ ở những bệnh nhân bị nhiễm thủy đậu biến chứng.

TÀI LIỆU THAM KHẢO:

Laura E Riley, MD, Varicella-zoster virus infection in pregnancy, uptodate, 8/2023.

Lamont RF, Sobel JD, Carrington D, et al. Varicella-zoster virus (chickenpox) infection in pregnancy. BJOG 2011; 118:1155.

Marin M, Güris D, Chaves SS, et al. Prevention of varicella: recommendations of the Advisory Committee on Immunization Practices (ACIP). MMWR Recomm Rep 2007; 56:1.

Enders G, Miller E, Cradock-Watson J, et al. Consequences of varicella and herpes zoster in pregnancy: prospective study of 1739 cases. Lancet 1994; 343:1548.

Cohen A, Moschopoulos P, Stiehm RE, Koren G. Congenital varicella syndrome: the evidence for secondary prevention with varicella-zoster immune globulin. CMAJ 2011; 183:204.

Stagno S, Whitley RJ. Herpesvirus infections of pregnancy. Part II: Herpes simplex virus and varicella-zoster virus infections. N Engl J Med 1985; 313:1327.

Bài viết: BSNT Nguyễn Thị Thảo Nhi

Đăng bài: Phòng CTXH

Bệnh Thủy Đậu Ở Phụ Nữ Mang Thai

Thủy đậu được coi là bệnh lành tính nếu được phát hiện sớm và điều trị đúng cách ở cả trẻ em và người lớn. Tuy nhiên, bệnh vẫn có thể trở thành một mối lo lớn đối với các bà mẹ trong thời kỳ mang thai vì nó có thể dẫn đến biến chứng nguy hiểm cho cả mẹ và thai nhi. #Dongtayy #Đông_tây_y

Bệnh thủy đậu xuất hiện một lần trong đời người và đối tượng bị thủy đậu đa phần là trẻ em, chính vì thế cho nên khi người phụ nữ đến tuổi lập gia đình và mang thai thì khả năng nhiễm thủy đậu là không cao. Ở 3 tháng đầu của thai kỳ, nếu người mẹ bị nhiễm thủy đậu thì virút có thể gây sảy thai Nhưng cũng có một số trường hợp người mẹ chưa bị bệnh khi còn bé và tiếp xúc trực tiếp với người đang bị thủy đậu, khả năng nhiễm bệnh sẽ rất cao. Phụ nữ mang thai nhiễm thủy đậu còn có nguy cơ cao bị viêm phổi do virút varicella gây nên. Khi đã bị viêm phổi, nguy cơ tử vong của thai phụ lên đến 40%, đây cũng là đối tượng có thể tử vong vì bệnh thủy đậu cao nhất.

Để tìm hiểu xem cơ thể bạn đã có kháng thể chống lại virút thủy đậu hay chưa có thể xét nghiệm máu. Nếu kết quả xét nghiệm cho thấy trong máu của bạn có kháng thể chống lại virút thủy đậu thì điều đó chứng tỏ bạn đã từng bị thủy đậu lúc bé hoặc đã được tiêm phòng bệnh này.

Ở 3 tháng đầu của thai kỳ, nếu người mẹ bị nhiễm thủy đậu thì virút có thể sẽ gây sảy thai. Còn nhiều biến chứng nguy hiểm khác đối với thai nhi, trong đó có hội chứng thủy đậu bẩm sinh.

Hội chứng thủy đậu bẩm sinh

Đối với những thai phụ bệnh thủy đậu nguyên phát (mắc bệnh lần đầu tiên) khi mang thai, tùy vào tuổi của thai nhi mà bệnh sẽ có độ ảnh hưởng nhiều hay ít. Vào tuần lễ thứ 8 – 12 của thai kỳ, nguy cơ thai nhi bị hội chứng thủy đậu bẩm sinh là 0,4%. Biểu hiện thường gặp nhất của hội chứng thủy đậu bẩm sinh là sẹo ở da. Những bất thường khác có thể xảy ra là tật đầu nhỏ, bệnh lý võng mạc, đục thủy tinh thể, nhẹ cân, chi ngắn, chậm phát triển tâm thần.

Vào tuần thứ 13 – 20 của thai kỳ, nguy cơ thai nhi bị hội chứng thủy đậu bẩm sinh là 2%. Sau tuần lễ thứ 20 thai kỳ, bệnh hầu như không ảnh hưởng trên thai. Nếu trong vòng 5 ngày trước sinh và 2 ngày sau sinh người mẹ nhiễm bệnh, bé sơ sinh dễ bị bệnh thủy đậu lây từ mẹ do lúc đó người mẹ chưa có đủ thời gian tạo kháng thể truyền cho thai nhi trước sinh. Tỉ lệ tử vong bé sơ sinh lúc này khá cao, lên đến 25 – 30% số trường hợp bị nhiễm.

Cách tốt nhất để tránh bệnh thủy đậu với bà mẹ mang thai là nên kiểm tra sức khỏe thật kỹ trước khi có thai, tiêm phòng để đảm bảo có một khoảng thời gian mang thai khỏe mạnh. Trong trường hợp phát hiện mình có thể bị nhiễm bệnh thủy đậu, quan trọng là cần cung cấp cho cơ thể thuốc kháng virút varicella – zoster Ig (một loại kháng thể giống với kháng thể do cơ thể tạo ra) để bảo vệ mẹ và thai nhi. Điều này có thể giảm đáng kể mức độ nghiêm trọng của bệnh và quan trọng hơn là không được cung cấp kháng thể này chậm hơn 10 ngày sau khi thai phụ tiếp xúc với nguồn bệnh.

Đối với việc chăm sóc khi thai phụ bị thủy đậu thì cần để người bệnh đượng nghỉ ngơi, uống nhiều nước, ăn thức ăn lỏng dễ tiêu hóa, nếu sốt có thể dùng thuốc hạ sốt paracetamol. Giữ vệ sinh thân thể, tránh làm vỡ những bóng nước vì có nguy cơ bội nhiễm. Nếu có những dấu hiệu nặng hơn, cần đến gặp bác sĩ để được thăm khám và có những bước điều trị kịp thời, tránh những biến chứng nguy hiểm hơn có thể có.

Cách dự phòng là nên chủng ngừa bệnh thủy đậu khi còn bé hoặc ít nhất 3 tháng trước khi mang thai. Khi mang thai nên tránh tiếp xúc với người bệnh thủy đậu. Giữ vệ sinh môi trường và vệ sinh thân thể tốt.

Điều Trị Thủy Đậu Ở Phụ Nữ Mang Thai Bằng Cách Nào?

Bệnh thủy đậu khá lành tính ở cả trẻ em và người lớn, bệnh thường có thể tự khỏi mà không cần điều trị. Tuy nhiên, điều trị thủy đậu ở phụ nữ mang thai là vô cùng cần thiết bởi căn bệnh này có thể gây ra nhiều biến chứng cho cả mẹ bầu và thai nhi.

Nếu bạn đang mang thai và nghĩ rằng mình bị thủy đậu, hãy liên hệ với bác sĩ sản khoa hoặc bệnh viện ngay lập tức để được tư vấn và chẩn đoán chính xác.

1. Điều trị thủy đậu ở phụ nữ mang thai 1.1. Trường hợp phụ nữ mang thai tiếp xúc với người mắc thủy đậu

Tại lần khám tiền sản đầu tiên, mẹ bầu sẽ được hỏi kĩ về tình trạng nhiễm varicella (bệnh thủy đậu) trước đó. Có khoảng 90-95% phụ nữ trong độ tuổi sinh sản đã có được miễn dịch với bệnh thủy đậu và sẽ tránh được nguy cơ nhiễm lần thứ 2.

Nếu bệnh nhân có tiền sử mắc thủy đậu trước đó và được ghi chép rõ ràng trong hồ sơ bệnh sử, bác sĩ sẽ không chỉ định xét nghiệm lại. Còn ở trường hợp bệnh nhân không chắc chắn về việc đã từng mắc thủy đậu hay chưa, bác sĩ sẽ chỉ định thực hiện xét nghiệm kháng thể varicella-zoster IgG.

Nếu xét nghiệm kháng thể varicella-zoster IgG cho kết quả dương tính, bệnh nhân có thể yên tâm rằng mình đã được miễn dịch và do đó không có nguy cơ bị nhiễm trùng lần thứ hai. Nếu kháng thể IgG không được phát hiện, bệnh nhân sẽ được tư tư vấn rằng nên tránh tiếp xúc với những người khác có nguy cơ bị thủy đậu cấp tính.

Nếu phụ nữ mang thai chưa được miễn dịch tiếp xúc với người bị thủy đậu, điều trị dự phòng được chỉ định. Phương pháp dự phòng được nghiên cứu nhiều nhất là sử dụng globulin miễn dịch varicella zoster (VZIG).

VZIG nên được sử dụng trong vòng 96 giờ kể từ khi tiếp xúc với tác nhân gây bệnh thủy đậu. Vì VZIG có thể kéo dài thời gian ủ bệnh của vi rút trong ít nhất một tuần. Bệnh nhân tiếp nhận tác nhân này cần được theo dõi chặt chẽ để biết khả năng lây nhiễm trong ít nhất 28 ngày sau khi tiếp nhận VZIG.

Nếu không có sẵn VZIG ngay lập tức, bác sĩ lâm sàng nên điều trị dự phòng bằng acyclovir (800 mg uống 5 lần mỗi ngày trong 7 ngày) hoặc valacyclovir (1000 mg uống 3 lần mỗi ngày trong bảy ngày).

Nếu thai phụ phát triển bệnh thủy đậu cấp tính, dù có hoặc không việc điều trị dự phòng thì việc điều trị thủy đậu ở phụ nữ mang thai cũng nên được tiến hành ngay lập tức. Bác sĩ sẽ chỉ định điều trị bằng acyclovir đường uống hoặc valacyclovir.

Trong trường hợp mẹ bầu có dấu hiệu viêm phổi, viêm não, nhiễm trùng lan tỏa nặng hoặc ức chế miễn dịch thì bác sĩ sẽ chỉ định nhập viện; và điều trị thủy đậu ở phụ nữ mang thai lúc này sẽ dùng bằng acyclovir tiêm tĩnh mạch. Liều thích hợp để tiêm tĩnh mạch acyclovir là 10 mg/kg; cứ 8 giờ một lần trong 10 ngày.

Đáng tiếc rằng hiện chưa có nghiên cứu nào chỉ ra rằng việc điều trị thủy đậu ở phụ nữ mang thai sẽ giúp ngăn ngừa varicella bẩm sinh ở thai nhi. Do đó, cần theo dõi chặt chẽ các biến chứng ở thai nhi song song với việc điều trị ở người mẹ.

2. Khi nào phụ nữ mang thai bị thủy đậu cần nhập viện?

– Cảm giác tức ngực, khó khăn trong việc hô hấp

– Cảm thấy buồn ngủ, buồn nôn, nhức đầu ngày càng nhiều

– Xuất huyết âm đạo

– Phát ban chảy máu

– Tình trạng phát ban nhiễm trùng lan tỏa

Những triệu chứng trên cảnh báo bệnh thủy đậu ở người mẹ đang tiến triển nặng và có thể gây ra nhiều biến chứng. Lúc này, thai phụ nên được bác sĩ thăm khám và chăm sóc tích cực.

3. Điều trị thủy đậu ở trẻ sơ sinh

Như đã biết, không có cách điều trị thủy đậu ở phụ nữ mang thai nào có thể ngăn ngừa thai nhi bị thủy đậu ngay từ trong bụng mẹ. Sau khi sinh, bác sĩ có thể cân nhắc điều trị cho em bé bằng kháng thể thủy đậu được gọi là globulin miễn dịch varicella zoster (VZIG) nếu:

– Em bé sinh ra trong vòng 7 ngày sau khi người mẹ phát ban thủy đậu

– Sản phụ phát ban thủy đậu trong vòng 7 ngày sau khi sinh

– Em bé tiếp xúc với bệnh thủy đậu hoặc zona trong vòng 7 ngày sau khi sinh

Nếu em bé sơ sinh phát triển bệnh thủy đậu, bác sĩ cũng có thể điều trị bằng aciclovir.

Nguồn dịch: http://perinatology.com/exposures/Infection/Varicella/Varicella.htm https://www.nhs.uk/common-health-questions/pregnancy/how-is-chickenpox-treated-during-pregnancy/

Biến Chứng Nguy Hiểm Của Thủy Đậu Ở Phụ Nữ Mang Thai

Bệnh thủy đậu có thể được xem là lành tính vì tỷ lệ tử vong rất thấp. Trẻ em là đối tượng dễ mắc bệnh nhất, song vẫn có trường hợp thủy đậu xảy ra với phụ nữ mang thai.

1. Bệnh thủy đậu trong thai kỳ

Bệnh thủy đậu, hay còn được gọi là trái rạ, do virus Varicella zoster (VZV) gây ra. Đây là một căn bệnh rất dễ lây lan qua đường hô hấp hoặc tiếp xúc trực tiếp với người bệnh.

2. Thai phụ bị thủy đậu có nguy hiểm không?

Đối với nữ giới từng mắc thủy đậu lúc còn trẻ hoặc đã tiêm vắc xin phòng ngừa thủy đậu trước khi mang thai thì trong cơ thể đã có kháng thể miễn dịch với căn bệnh này. Sau đó nếu như mang thai, sản phụ có thể yên tâm sức khỏe của cả mẹ và thai nhi sẽ không bị đe dọa bởi bệnh thủy đậu.

Biến chứng của bệnh thủy đậu có nguy cơ ảnh hưởng đến bản thân thai phụ cũng như em bé trong bụng họ. Virus varicella gây bệnh thủy đậu làm tăng tỷ lệ mắc viêm phổi ở thai phụ lên 10 – 20%. Phụ nữ mang thai nhiễm bệnh thủy đậu là đối tượng tử vong nhiều nhất trong số những người lớn mắc phải căn bệnh này, đặc biệt là khi thai phụ đã bị viêm phổi do virus varicella.

Ở những sản phụ nhiễm thủy đậu lần đầu khi mang thai, sự tác động của bệnh đến thai nhi tùy thuộc vào từng giai đoạn thai kỳ:

Trong 3 tháng đầu, cụ thể là tuần thứ 8-12, em bé có 0.4% nguy cơ mắc Hội chứng thủy đậu bẩm sinh. Dấu hiệu phổ biến nhất của hội chứng thủy đậu bẩm sinh là da có sẹo. Bên cạnh đó, những biến chứng khác có thể xảy ra bao gồm: dị tật đầu nhỏ, bệnh lý về mắt, bé nhẹ cân, tay hoặc chân bị teo, chậm phát triển hệ thần kinh hay thậm chí là bại não. Ngoài ra, người mẹ bị thủy đậu khi mới mang thai có thể bị sảy thai do tác động của VZV gây bệnh.

Ở 3 tháng tiếp theo, đặc biệt tuần thứ 13 đến tuần 20, tỷ lệ bào thai bị hội chứng thủy đậu bẩm sinh tăng lên 2%. Kể từ tuần lễ thứ 20 trở đi, bệnh thủy đậu thai kỳ hầu như không gây ảnh hưởng đến em bé.

Nếu bà bầu mắc bệnh khoảng 5 ngày trước khi chuyển dạ cho đến 2 ngày sau sinh, trẻ sơ sinh có nhiều khả năng nhiễm bệnh thủy đậu lan tỏa. Nguyên nhân là do thời gian quá ngắn khiến thai nhi chưa kịp nhận đủ kháng thể từ người mẹ. Trong trường hợp này, bé có nguy cơ tử vong khá cao, lên đến khoảng 25 – 30% các ca trẻ sơ sinh bị thủy đậu lan tỏa từ mẹ.

3. Cách chữa thuỷ đậu cho bà bầu

Đối với phụ nữ mang thai bị mắc bệnh thủy đậu, nên dành thời gian nghỉ ngơi hoàn toàn, bổ sung nhiều nước, dùng thức ăn lỏng và dễ tiêu hóa, cũng như bổ sung vitamin C để tăng cường sức đề kháng cho cơ thể. Nếu có biểu hiện sốt có thể uống thuốc Paracetamol để hỗ trợ hạ sốt, giảm mệt mỏi.

Một lưu ý quan trọng đối với bệnh nhân nhiễm thủy đậu nói chung là phải giữ vệ sinh thân thể thật tốt, hạn chế tối đa tác động làm vỡ những bóng nước, vì nếu không sẽ dẫn đến nguy cơ bội nhiễm rất nghiêm trọng.

Trong trường hợp sản phụ bị phơi nhiễm với bệnh nhưng trước đây chưa từng bị thủy đậu hoặc tiêm phòng, bác sĩ có thể chỉ định dùng varicella – zoster immune globulin (VZIG) để tránh các biến chứng của căn bệnh. Cần hiểu rằng việc dùng VZIG chỉ giúp ngăn ngừa những rủi ro nguy hiểm có thể xảy ra với người mẹ chứ không phòng tránh cho thai nhi khỏi nhiễm trùng, hay loại bỏ được hội chứng thủy đậu bẩm sinh và bệnh thủy đậu sơ sinh.

Để giúp ích và bảo vệ được thai nhi, một loại VZIG khác chuyên dùng cho trẻ sơ sinh mới là sự lựa chọn thích hợp. Khi bệnh thủy đậu thai kỳ diễn tiến nghiêm trọng, có nguy cơ dẫn đến viêm phổi, tiêm Acyclovir đường tĩnh mạch để ức chế sự phát triển của VZV được xem như một cách chữa thuỷ đậu cho bà bầu và giảm tác động tiêu cực đến em bé.

4. Phòng ngừa bệnh thủy đậu khi mang thai

Tổ chức Y tế Thế giới (WHO) và Tổ chức Phòng ngừa và Kiểm soát Dịch bệnh Hoa Kỳ (CDC) đều khẳng định rằng tiêm chủng vắc xin là cách phòng ngừa thủy đậu đơn giản và hiệu quả nhất với khả năng miễn dịch hoàn toàn lên đến 90%. Nếu đã tiêm ngừa mà vẫn mắc thủy đậu thì bệnh cũng rất nhẹ, rất ít mụn nước, và thường không gây biến chứng đáng kể nào.

Nữ giới nên đi tiêm vắc xin phòng ngừa bệnh thủy đậu khi còn trẻ hoặc trước khi mang thai ít nhất 3 tháng. Lưu ý là không được tiêm loại vắc xin thủy đậu khi đang có thai. Sản phụ cũng cần phải chú ý tránh tiếp xúc với người mắc thủy đậu, cũng như giữ vệ sinh môi trường sống và thân thể, đặc biệt là rửa tay kỹ lưỡng trong thời gian mang thai.

Để phòng bệnh thuỷ đậu đồng thời để chuẩn bị cho một thai kỳ khỏe mạnh bạn tham khảo danh sách các vắc-xin nên tiêm phòng trước khi mang thai. Bệnh thuỷ đậu nếu được theo dõi và chữa trị tích cực, vẫn có thể sinh con khỏe mạnh như bình thường. Do đó, không cần quá lo lắng, thay vào đó bạn cần giữ tinh thần lạc quan, tuân thủ theo chỉ dẫn của bác sĩ sản khoa trong suốt thai kỳ.

Bệnh viện Đa khoa Quốc tế Vinmec hiện đang cung cấp Chương trình tiêm chủng trọn gói với nhiều loại vắc-xin đa dạng cho các đối tượng khác nhau, từ trẻ sơ sinh, trẻ nhỏ, người lớn, phụ nữ trước và trong khi mang thai. . Khi đến tiêm phòng tại Bệnh viện Vinmec, quý khách hàng nhận được những lợi ích sau:

Khách hàng đến sử dụng dịch vụ tiêm vắc – xin sẽ được các bác sĩ chuyên khoa thăm khám, sàng lọc đầy đủ các vấn đề về thể trạng và sức khỏe, tư vấn về vắc – xin phòng bệnh và phác đồ tiêm, cách theo dõi và chăm sóc khách hàng sau tiêm chủng trước khi ra chỉ định tiêm vắc – xin theo khuyến cáo mới nhất của Bộ Y tế & Tổ chức Y tế Thế giới nhằm đảm bảo hiệu quả tốt nhất và an toàn nhất cho người tiêm vắc – xin.

Đội ngũ bác sĩ giàu kinh nghiệm, chuyên nghiệp, áp dụng cách giảm đau hiệu quả cho khách hàng trong quá trình tiêm chủng.

100% khách hàng tiêm chủng được theo dõi 30 phút sau tiêm và đánh giá lại sức khỏe trước khi ra về.

Được theo dõi đa khoa trước, trong và sau tiêm chủng tại Hệ thống y tế Vinmec và luôn có ekip cấp cứu sẵn sàng phối hợp với phòng tiêm chủng xử trí các trường hợp sốc phản vệ, suy hô hấp – ngừng tuần hoàn, đảm bảo xử lý kịp thời, đúng phác đồ khi có sự cố xảy ra.

Đặc biệt, phòng tiêm chủng thoáng mát, có khu vui chơi dành cho trẻ em, giúp trẻ có cảm giác thoải mái và tâm lý tốt trước và sau khi tiêm chủng.

Vắc – xin được nhập khẩu và bảo quản tại hệ thống kho lạnh hiện đại, với dây chuyền bảo quản lạnh (Cold chain) đạt tiêu chuẩn GSP, giữ vắc – xin trong điều kiện tốt nhất để đảm bảo chất lượng.

Trường hợp bố mẹ đưa con đi tiêm sẽ nhận tin nhắn nhắc lịch trước ngày tiêm và thông tin tiêm chủng của bé sẽ được đồng bộ với hệ thống thông tin tiêm chủng quốc gia.

Mọi thông tin chi tiết Khách hàng vui lòng liên hệ đến các bệnh viện, phòng khám thuộc hệ thống y tế Vinmec trên toàn quốc.

XEM THÊM:

Để được tư vấn trực tiếp, Quý Khách vui lòng bấm số HOTLINE hoặc đăng ký trực tuyến TẠI ĐÂY.

Phụ Nữ Mang Thai Mắc Thủy Đậu Có Nguy Hiểm?

Tôi đang mang thai tháng thứ 4 nhưng trong khu tập thể nhà tôi hiện có nhiều trẻ bị thủy đậu khiến tôi rất lo lắng. Vậy xin hỏi nếu mang thai mắc thủy đậu có nguy hiểm không?

Thủy đậu là một bệnh rất dễ lây truyền, xảy ra phần nhiều ở trẻ em, ít xảy ra ở người lớn, nhưng đối với thai phụ, bệnh có thể ảnh hưởng tới người mẹ mà còn để lại những hậu quả nặng nề cho thai nhi. Khi thai phụ nhiễm bệnh thủy đậu sẽ có nguy cơ viêm phổi do Varicella-zoster virus từ 10-20%. Đối với những thai phụ mắc bệnh thủy đậu nguyên phát khi mang thai, sự ảnh hưởng của bệnh trên thai nhi tùy vào từng giai đoạn tuổi thai.

Trong ba tháng đầu, đặc biệt là tuần lễ thứ 8-12 của thai kỳ, nguy cơ thai nhi bị hội chứng thủy đậu bẩm sinh là 0,4%. Biểu hiện thường gặp nhất của hội chứng thủy đậu bẩm sinh là sẹo ở da. Những bất thường khác có thể xảy ra là tật đầu nhỏ, bệnh lý võng mạc, đục thủy tinh thể, nhẹ cân, chi ngắn, chậm phát triển tâm thần. Ngoài ra, có thể gây sẩy thai hoặc thai chết lưu. Trong ba tháng giữa, đặc biệt là tuần 13-20 của thai kỳ, nguy cơ thai nhi bị hội chứng thủy đậu bẩm sinh là 2%. Sau tuần lễ thứ 20 của thai kỳ, hầu như không ảnh hưởng trên thai. Nếu người mẹ nhiễm bệnh trong vòng 5 ngày trước sinh và 2 ngày sau sinh, bé sơ sinh dễ bị bệnh thủy đậu lan tỏa do mẹ chưa có đủ thời gian tạo kháng thể truyền cho thai nhi trước sinh. Để tránh nguy cơ lây bệnh cho con, ngay sau sinh bé cần được dùng varicella zoster immune globulin và cách ly với mẹ.

Tuy nhiên, phụ nữ đã từng nhiễm bệnh thủy đậu trước khi mang thai hoặc đã được chủng ngừa bệnh thủy đậu thì được miễn dịch với bệnh này, trong cơ thể đã có kháng thể chống lại bệnh. Do đó, khi mang thai, những thai phụ đã có kháng thể chống lại bệnh thủy đậu không cần phải lo lắng về biến chứng của bệnh đối với bản thân họ cũng như thai nhi.

Trường hợp của bạn, tốt nhất không nên tiếp xúc với người bệnh để phòng bệnh và thăm khám bác sĩ sản khoa định kỳ.

BS. ĐỨC TRUNG

Cách Điều Trị Bệnh Thủy Đậu Cho Phụ Nữ Đang Mang Thai

– Thủy đậu có thể trở thành một mối lo lớn đối với những người phụ nữ đang trong thời kỳ mang thai vì nó có thể dẫn đến biến chứng nguy hiểm cho cả mẹ và thai nhi. Nếu ở ba tháng đầu của thai kỳ, người mẹ bị nhiễm thủy đậu thì virus thủy đậu có thể sẽ gây sảy thai. Đặc biệt còn rất nhiều các biến chứng nguy hiểm khác đối với thai nhi, trong đó có hội chứng thủy đậu bẩm sinh. Bé trai lở loét toàn thân do tắm lá chữa thuỷ đậuHội chứng thủy đậu bẩm sinh Những hiểu sai về thủy đậuCách điều trị thủy đậu cho phụ nữ mang thai Bà bầu dính thủy đậu, bào thai có nguy cơ bị dị tật bẩm sinh

Đối với những thai phụ bị bệnh thủy đậu nguyên phát (mắc bệnh lần đầu tiên) khi mang thai, tùy vào tuổi của thai nhi mà bệnh sẽ có độ ảnh hưởng nhiều hay ít. Vào tuần lễ thứ 8 – 12 của thai kỳ, nguy cơ thai nhi bị hội chứng thủy đậu bẩm sinh là 0,4%. Biểu hiện thường hay gặp phải nhất của hội chứng thủy đậu bẩm sinh là có sẹo ở da. Những bất thường khác có thể xảy ra là tật đầu nhỏ, bệnh lý võng mạc, đục thủy tinh thể, nhẹ cân, chi ngắn, chậm phát triển tâm thần.

Vào tuần thứ 13 đến tuần thứ 20 của thai kỳ, nguy cơ thai nhi bị hội chứng thủy đậu bẩm sinh là 2%. Sau tuần lễ thứ 20 thai kỳ, bệnh hầu như không có ảnh hưởng trên thai. Nếu trong vòng năm ngày trước sinh và hai ngày sau khi sinh người mẹ bị nhiễm bệnh, thì bé sơ sinh dễ bị bệnh thủy đậu lây từ mẹ sang. Do lúc đó người mẹ chưa có đủ thời gian tạo kháng thể truyền cho thai nhi trước sinh. Tỉ lệ tử vong bé sơ sinh lúc này khá cao, lên đến khoảng 25 – 30% số trường hợp bị nhiễm.

Cách tốt nhất để tránh bệnh thủy đậu đối với bà mẹ mang thai là nên kiểm tra sức khỏe thật kỹ trước khi có thai, đồng thời tiêm phòng để đảm bảo có một khoảng thời gian mang thai khỏe mạnh.

Trong trường hợp phát hiện bản thân có thể bị nhiễm bệnh thủy đậu, thì điều quan trọng là cần cung cấp cho cơ thể thuốc kháng virus varicella – zoster Ig ( đây là một loại kháng thể giống với kháng thể do cơ thể tạo ra) để bảo vệ mẹ và thai nhi. Điều này có thể có khả năng giảm đáng kể mức độ nghiêm trọng của bệnh và điều quan trọng hơn là không được cung cấp kháng thể này chậm hơn 10 ngày sau khi thai phụ tiếp xúc với nguồn bệnh.

Đối với việc chăm sóc khi thai phụ bị thủy đậu thì cần phải để người bệnh nghỉ ngơi, uống nhiều nước, ăn thức ăn lỏng dễ tiêu hóa và tăng cường các thức ăn có vitamin C nhằm tăng sức đề kháng cho cơ thể.

Giữ vệ sinh thân thể, tránh làm vỡ những bóng nước vì có nguy cơ bội nhiễm rất cao. Nếu có những dấu hiệu nặng hơn, cần đến gặp bác sĩ để được thăm khám và có những bước điều trị kịp thời, tránh những biến chứng nguy hiểm hơn có thể có. Cách dự phòng là nên chủng ngừa bệnh thủy đậu khi còn bé hoặc ít nhất ba tháng trước khi mang thai. Trong trường hợp, bà bầu bị thủy đậu nên tránh tiếp xúc với người bệnh thủy đậu.

Dương Uyên(tổng hợp)

Trong dân gian có nhiều bài thuốc hay, chữa được nhiều căn bệnh hiệu quả, trong đó có cả bệnh thủy đậu.

Bài viết sau đây sẽ mách nhỏ đến các bạn 4 bài thuốc chữa bệnh thủy đậu rất hiệu quả cho trẻ.

Thủy đậu là một trong số những bệnh ngoài da dễ mắc phải, gây ảnh hưởng lớn đến cuộc sống sinh hoạt của người bệnh. Bởi vậy, bạn nên biết bệnh thủy đậu là gì?

Cập nhật thông tin chi tiết về Thủy Đậu Ở Phụ Nữ Có Thai trên website Dsb.edu.vn. Hy vọng nội dung bài viết sẽ đáp ứng được nhu cầu của bạn, chúng tôi sẽ thường xuyên cập nhật mới nội dung để bạn nhận được thông tin nhanh chóng và chính xác nhất. Chúc bạn một ngày tốt lành!